Làn sóng điện thay thế thanh gươm, cây bút là phương tiện đi vào trái tim và khối óc mọi người. Mỗi chúng ta hãy là một chiến sĩ thông tin…Lời ngỏ cùng bạn đọc: Đại họa mất nước do bọn phản động là Tập đoàn Việt gian Cộng sản (VGCS) bán nước đang đến rất gần! Đây là cuộc chiến khó khăn hơn bất kỳ cuộc chiến nào trong lịch sử vì VGCS là một thế lực cực kỳ hiểm độc, chúng núp dưới danh nghĩa đồng bào, thậm chí là người thân của chúng ta nên đòi hỏi chúng ta phải hết sức tỉnh táo trước cạm bẫy do chúng giăng ra. Trong nước, để làm sập bẫy người yêu nước, chúng nhào nặn ra bọn Dân chủ "cuội", đấu tranh cò mồi như: Cù huy Hà Vũ, Thích Quảng Độ, Nguyễn Thanh Giang, Nguyễn Đan Quế, Hà Sĩ Phu, Tô Hải, Nguyễn Văn Lý, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Tiến Trung, L.T. C.Nhân, Hoàng Minh Chính ... Tiếp tay cho chúng ở Hải ngoại là bọn chó đẻ Việt Tân và đám tay sai nằm vùng như: Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương thu Hương, Phật giáo VN Thống Nhất và các báo Dân làm báo, Quan làm báo, Đàn Chim Việt, Người Việt, BBC, VOA... Nên nhớ, chính lũ nằm vùng này còn nguy hiểm hơn cơ quan chuyên chính của VGCS rất nhiều vì chúng giả bộ đi với ta nhưng lại đưa ta vào mê lộ do VGCS giăng ra. Chúng ta, những người con dân Việt yêu nước, còn có ý thức trách nhiệm với Quốc gia - Dân tộc, vì tương lai bản thân và con cháu mình hãy thức tỉnh lương tri khi thời cơ tới cùng đứng lên đập tan Ngụy quyền VGCS.
Qua trang web này, những bài viết rất có giá trị đã được chọn lọc nhằm giúp Quý bạn đọc hiểu rõ hiện tình đất nước, những âm mưu tội ác ngày càng tinh vi và thâm độc hơn của bọn VGCS đối với dân tộc VN để mà qua đó chuẩn bị cho mình những kinh nghiệm đấu tranh hiệu quả nhất trước khi dấn thân vì đại nghĩa. Cùng chung tay góp sức, xin hãy phổ biến trang Web này đến với tất cả mọi người (Download Blog tại đây...)

Trường Chinh: Kẻ vong bản, tên tội đồ phản quốc

Hình bên: Hồ Chí Minh và những đàn em cộng sản của mình.Từ trái qua: Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh.Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu 1 người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước 1 tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ

Trường Chinh (1907 – 1988) tên thật là Đặng Xuân Khu. Theo thông tin từ website của trường THCS Trường Chinh cho biết thông tin về Trường Chinh: ”Là nhà chính khách cách mạng, nhà thơ, bút danh Sóng Hồng, biệt hiệu Trường Chinh (biệt hiệu này dùng như tên gọi). Ông sinh ngày 09/02/1907 tại làng Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Xuân Hồng, huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định)… Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (1941) ông được cử làm Tổng bí thư Đảng, đồng thời làm chủ bút các báo Giải Phóng, Cờ Giải Phóng và Tạp Chí Cộng Sản…Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được cử vào nhiều chức vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước như: Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị, Tổng bí thư, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội.Đến năm 1981, ông là Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước và Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Tháng 7/1987, ông được bầu làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tháng 12 cùng năm, ông được đề cử làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.”.(Links: http://thcstruongchinh.vn/home/gioithieu/detail/id/3/Tieu-su-Truong-Chinh ).


Trên thực tế Trường Chinh là đàn em của Hồ Chí Minh và là một trong những tội đồ của dân tộc Việt Nam. Xét trên khía cạnh tội ác thì tất cả các lãnh đạo cộng sản đều có tội với dân tộc, với đất nước. Tuy nhiên mỗi người có những tội lỗi đặc thù khác nhau. Ở con người của Trường Chinh trong bài viết này nổi bật lên tội lỗi đó là một kẻ Vong bản . Điều này thể hiện ở hai sự việc sẽ được trình bày dưới đây.

I. Đồng mưu với Hồ Chí Minh để Hán hóa Việt Nam:
Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh và đảng cộng sản đã chủ trương bán nước và tiến hành Hán hóa Việt nam, làm tay sai cho Trung cộng.Bạn đọc có thể tìm hiểu kỹ hơn ở “Những sự thật không thể chối bỏ “ phần 2,9,10,11,12. Phục vụ đắc lực cho âm mưu Hán hóa Việt Nam đó chính là Trường Chinh. Để minh chứng cho sự kiện này chúng ta cùng tìm hiểu các chứng cứ sau đây.
Tờ nhật báo “Tiếng Dội” số 462, năm thứ 3, 1951, Âm lịch 22 tháng Bảy năm Tân Mão, giá bán 1 đồng, của Chủ nhiệm Trần Chí Thành tự Trần Tấn Quốc, Tòa soạn, Quản lý 216 đường Gia Long Sài Gòn, có bài mang tựa đề “Việt Minh vận động cho Việt Nam làm chư hầu Trung Quốc”, cho in nguyên văn một tờ truyền đơn do Trường Chinh ký như sau:

ỦY BAN HÀNH CHÍNH KHÁNG CHIẾN VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA 
NĂM THỨ VII 
TỔNG THƯ KÝ ĐẢNG LAO ĐỘNG VN 
SỐ: 284/LĐ ĐỘC LẬP TỰ DO HẠNH PHÚC 

Hỡi đồng bào thân mến!

Tại sao lại nhận vào trong nước Việt Nam yêu mến của chúng ta, là một nước biết bao lâu làm chư hầu cho Trung quốc, cái thứ chữ kỳ quặc của bọn da trắng Tư Bản đem vào!

Tại sao ta lại truyền bá trong dân chúng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, cách viết chữ dị kỳ của tên thực dân Alexandre de Rhodes đã đem qua xứ mình như thế?

Không, đồng bào của ta nên loại hẳn cách viết theo lối Âu Tây ấy - một cách viết rõ ràng có mau thật đấy - và ta hãy trở về với thứ chữ của ông bà ta ngày trước, là thứ chữ nho của Trung Quốc.

Vả chăng, người Trung Hoa, bạn của ta - mà có lẽ là thầy của chúng ta nữa, ta không hổ thẹn mà nhìn nhận như thế - có phải là dân tộc văn minh trước nhất hoàn cầu không? Còn nói gì đến y khoa của Âu Mỹ: Chúng chỉ cắt, đục, khoét, nạo! Có thế thôi!

Hỡi đồng bào yêu mến! Chúng ta hãy gạt bỏ cách chữa bệnh của bọn Đế quốc phương Tây đem qua xứ ta!

Ta hãy bỏ nhà bảo sinh của chúng, bỏ bệnh viện của chúng, ta hãy dùng thuốc dán của ông cha ta để lại và nhất là dùng thuốc Tàu danh tiếng khắp cả hoàn cầu!!!!

Ta hãy trở về phương pháp này, trước nữa để ủng hộ các bạn Trung Hoa, sau nữa để loại ra khỏi nước Việt Nam yêu mến của ta bao nhiêu những đồ nhập cảng thực dân như là khoa học, phát minh v.v...

Ta hãy quét sạch lũ “trí thức” đã xuất thân ở các trường Âu Mỹ, đế quốc và thực dân!

Chúc “Tổng phản công” và “Thi hành mọi phương pháp bài trừ thực dân”.

Trường Chinh
Tổng thư ký đảng Lao Động

Đây là một văn bản cho thấy đảng cộng sản chủ trương bán nước và Hán hóa dân tộc, kêu gọi làm chư hầu rõ rệt nhất cho Trung cộng. Việc này là một sự cho thấy rõ nét âm mưu Hán hóa của đảng cộng sản trong vô vàn hành động khác. Tuy nhiên sẽ có nhiều ý kiến cho rằng sự có mặt của sắc lệnh kêu gọi kia chỉ là một thứ bịa đặt nhằm bôi nhọ đảng cộng sản. Nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi đã có những bằng chứng khẳng định sự có mặt của văn bản do Trường Chinh ký là thật.

Thứ nhất, số báo Tiếng Dội này nằm trong Thư Viện tiếng Việt thuộc Bảo Tàng Viện Anh Quốc (British Museum - London). Bạn đọc hoàn toàn có thể kiểm chứng. Chúng ta cũng phải nhìn nhận về tờ báo Tiếng Dội như sau. Các văn bản, bài báo được lưu trữ trong văn khố của các nhà nước có tiến bộ như Anh, Mỹ, Pháp… đều là những tác phẩm có giá trị về mặt nội dung cũng như sự thật lịch sử được nghiên cứu và chọn lọc kỹ lưỡng. Sự việc được lưu trữ trong văn khố của viện bảo tàng nước Anh cho thấy tính xác thực của bài báo nói trên trong tờ báo Tiếng Dội. Đó là bằng chứng đầu tiên cho thấy sự tồn tại sắc lệnh của ông Trường Chinh là có thật.

Thứ hai, Hiện nay tại Trung tâm lưu giữ quốc gia I, Việt Nam có một văn bản lưu giữ như nội dung bài báo Tiếng Dội cho đăng. Văn bản này được lưu giữ trong kho văn thư trước năm 1945 của đảng cộng sản Việt Nam. Văn bản tuy mất một phần dưới góc do yếu tố thời gian không thể thấy được chữ ký của ai nhưng trên đầu của sắc lệnh ghi rõ do đảng Lao động Việt Nam (tên khác của đảng cộng sản) ban hành. Việc không thấy chữ ký của ai không quan trọng lắm vì nó có ghi rõ là của đảng Lao động và được trung tâm lưu trữ quốc gia lưu trữ nên nó không thể vô giá trị. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại trung tâm lưu trữ quốc gia I tại Hà Nội về sắc lệnh kêu gọi nói trên.

Thứ ba, Sẽ là thiếu sót nếu chỉ có 2 bằng chứng trên đây để khẳng định việc tồn tại sắc lệnh kêu gọi của ông Trường Chinh là sự thật. Thêm bằng chứng sau đây sẽ khẳng định chắc chắn về điều đó với bạn đọc. Vì đảng cộng sản hay có thói quen thủ tiêu bằng chứng về tội ác và sai lầm của mình nên thêm một nguồn tài liệu có thể khẳng định điều này. Trong cuốn sách của tác giả Hà Cẩn (Viện văn học Trung quốc) có một cuốn sách được in năm 1997 và tái bản năm 2000 với tiêu đề tạm dịch sang tiếng Việt: “Mao chủ tịch của tôi” bởi nhà Xuất bản Trung ương Trung quốc. Cuốn sách dày 438 trang có đoạn trang 126 nói về quan hệ với Việt Nam. Đoạn đó có đoạn tạm dịch như sau:

Mao chủ tịch đánh giá việc Việt Minh đã từng muốn dùng tiếng Trung Quốc thay cho chữ quốc ngữ Việt Nam là một hành động cho thấy trước sau gì Việt Nam sẽ thuộc về chúng ta, ít nhất là về văn hóa”.

Từ đoạn này chúng ta có thể thấy Mao đã biết chủ trương dùng tiếng Hoa của Việt Minh (lúc đó mang tên đảng Lao động Việt Nam). Thời điểm tác giả Hà Cẩn nêu trong cuốn sách của mình là lúc Mao vẫn chỉ gọi đảng cộng sản Việt Nam là Việt Minh trùng khớp với thời điểm và cách dùng trong quy phạm của sắc lệnh kêu gọi của Trường Chính đòi nhân dân Việt Nam học tiếng Hoa.

Thứ tư, Để khẳng định thêm về con người của Trường Chinh và vai trò của Trường Chinh trong bức thư kêu gọi bỏ Việt theo Tàu thì  một cuốn sách của tác giả đảng viên đảng cộng sản Pháp - D. Olivier cho biết :” Chính phủ của đảng Lao Động Việt Nam đã được chính quyển cộng hòa dân chủ nhân dân Trung Hoa hậu thuẫn rât nhiều . Đã có thời điểm tổng thư ký đảng Lao Động là ông Trường Chinh thay mặt đảng chủ trương cho người dân Việt nam học chữ Hán như là một thứ quốc ngữ …”(Trích trang 95 cuốn “Đông Dương và người Pháp” – xuất bản năm 1987).

Trường Chinh đọc báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI của Đảng CS tháng 12-1986.

Thứ năm, Bản thân con người của Trường Chinh là một con người có tư tưởng thân Trung cộng và là người vâng lời Hồ Chí Minh gần như tuyệt đối. Trường Chinh là người tích cực nhất trong vụ cải cách ruộng đất mà Hồ học từ Trung cộng. Việc thực thi một cách chặt chẽ các chủ trương của Tàu và Hồ Chí Minh đã biến Trường Chinh thành một tên tội đồ trong CCRĐ. Điều này khác hẳn với tư tưởng của ông Duẩn trong việc quan hệ với Trung cộng.
Rõ ràng ngay cả bản chất con người Trường Chinh cũng cho thấy ông ta yêu Trung cộng như lãnh tụ của ông ta. Để thấy rõ nét vai trò là đàn em của Hồ trong cải cách ruộng đất chúng ta có thể đọc lại “Những sự thật không thể chối bỏ” phần 5 và lưu ý:” Cấp trung ương: do tổng bí thư đảng Lao động là Trường Chinh - Đặng Xuân Khu làm chủ tịch, có ba người phụ tá là Hoàng Quốc Việt, Lê Văn Lương (đều là ủy viên Bộ chính trị) và Hồ Viết Thắng (ủy viên Trung ương đảng). Hồ Viết Thắng giữ chức giám đốc, trực tiếp điều hành cuộc Cải cách theo mệnh lệnh của Trường Chinh. Hồ Viết Thắng đã từng đi học ở Trung cộng, được Trường Chinh giao nhiệm vụ mở "Trung tâm đào tạo cán bộ Cải cách Ruộng đất" tại chiến khu Cao Bắc Lạng.”

Đấu tố CCRĐ
Và đặc biệt trong vụ án của bà Cát Hanh Long thì Trường Chinh cũng cho thấy bản chất khát máu cũng như quỵ lụy Hồ Chí Minh như thế nào. Trong Hồi ký “Làm người rất khó, làm người xã hội chủ nghĩa khó hơn”, nguyên Phó thủ tướng CHXHCN Việt Nam, ông Đoàn Duy Thành cho biết việc bà Năm bị bắn đã làm xôn xao dư luận. Ông cho rằng việc làm này có 3 điều làm sai chính sách là:
(1) Địa chủ kháng chiến được chiếu cố;
(2) Địa chủ kiêm công thương được chiếu cố;
(3) Địa chủ hiến ruộng được chiếu cố. Và một điều sai đạo lý là "... bắn một địa chủ là nữ, không phải là cường hào gian ác sẽ trái đạo lý thông thường của người Việt Nam".

Ông Đoàn Duy Thành viết tiếp: "Sau này khi sửa sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại: 'Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và nói đại ý: ‘ Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?’ Nhưng cán bộ thừa hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trường Chinh và được trả lời là: 'Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!'. Và thế là cái chết đã đến với bà Năm.



Bữa cơm tại Tỉn Keo ATK gồm Hồ Chí Minh ,Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp tiễn Lê Đức Thọ vào Nam. Ảnh tư liệu trưng bày tại Bảo tàng ATK Định Hóa.

Trường Chinh và Hồ Chí Mình

Sắc lệnh kêu gọi của Trường Chinh thể hiện dã tâm biến Việt Nam thành một tỉnh của Trung cộng của đảng cộng sản Việt Nam. Như vậy bản chất vong bản của Trường Chinh đã thể hiện rõ ở luận cứ này vì dám kêu gọi bỏ chữ viết dân tộc đi theo chữ của Trung cộng.

II. Sát hại cha mẹ và thân nhân

Bản chất vong bản của Trường Chinh còn thể hiện ở việc ông ta đấu tố để bức hại cha mẹ cũng như thân nhân của mình. Xin theo dõi một số dẫn chứng sau đây để thấy rõ điều này.

Thứ nhất, Trường Chinh tên thật là Đặng Xuân Khu có liên hệ về gia tộc với Bác sĩ Đặng Vũ Lạc làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường, Nam Định. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là một vị bác sĩ kỳ cựu của Đông Dương, tốt nghiệp ở Pháp, đã điều hành dưỡng đường Henry Copin ở Hà Nội là nhà thương tư lớn nhất vào thuở ấy. Bác sĩ Đặng Vũ Lạc cũng là người đề xướng thành lập Hội Bác sĩ Đông Dương. Nhà thương Henry Copin ở phố Hàng Cỏ, Hà Nội là nơi tụ hội của hàng ngũ đảng viên Đại Việt. Người em ruột của Bác sĩ Đặng Vũ Lạc là Đặng Thị Khiêm, có chồng là Ông cả Nguyễn Tư Tề, nên thường được gọi là Bà cả Tề. Bà là Đảng viên điều hành Xứ bộ Bắc Việt của đảng. Khi Trường Chinh bị đuổi học về nhà đi lang thang, Bà Cả thương tình con cháu đem về chăm sóc và lo việc vợ con và thăm nuôi những lần Trường Chinh bị Pháp bắt giam ở Hỏa Lò.
Tác giả Quang Minh trong quyển sử Đại Việt Quốc dân đảng đã viết rằng hệ phái bên Bác sĩ Đặng Vũ Lạc học hành và làm ăn phát đạt nên được dân trong làng Hành Thiện và cả phủ Xuân Trường vị nể, nhưng (trang 19 sđd): “Trái lại, Trường Chinh thì học hành không ra gì còn bị sa sút… cho nên có sự ganh tỵ ở địa phương đã lâu. Đến khi Cộng sản chiếm được chánh quyền, Trường Chinh ra lệnh thủ tiêu một lần bảy (07) người thanh niên trí thức của họ Đặng Vũ đã theo Đại Việt: 
1- Đặng Vũ Căn, 2- Đặng Vũ Toại, 3- Đặng Vũ Lệ, 4- Đặng Vũ Kha, 5- Đặng Vũ Tân, 6- Đặng Vũ Định, 7- Đặng Vũ Úy.”
Thứ hai, Lúc khởi đầu chiến dịch CCRĐ năm 1952, chính Trường Chinh Đặng Xuân Khu đã đấu tố cả cha mẹ của mình khiến ngoài dân gian có câu vè truyền tụng (trích bài của Ban biên tập Báo Nguyệt San Tự do Ngôn luận, số 40, ngày 1-12-2007):“Đấu tố phụ mẫu, tôn thờ Mác Lê, nhục ấy đời chê thằng họ Đặng. Hãm hại sĩ nông, đảo điên văn hoá, tội kia sách chép đứa tên Khu”.

Khu ở đây chính là Đặng Xuân Khu – Trường Chinh !.

Thứ ba, Tác giả Minh Võ tên thật là Vũ Đức Minh, sinh năm 1931 tại Nam Định (đồng hương với Trường Chinh) và hiện đang sinh sống tại San Diego, California. Tác giả nguyên là Tổng thư ký Nguyệt san Tinh Thần, và cũng là dịch giả nhiều cuốn sách từ Anh và Pháp ngữ sang tiếng Việt về các vấn đề tôn giáo, chính trị, văn học, lịch sử, tâm lý giáo dục. Tác giả đã giữ nhiều trách nhiệm quan trọng trong ngành truyền thông trước 1975. Sau năm 1975, tác giả bị cộng sản giam tù 10 năm. Một số tác phẩm: Sách lược xâm lăng của cộng sản, Sài Gòn, 1963, Ngô Đình Diệm lời khen tiếng chê, Thông Vũ, 1968, 1998, 2002…
Trong bài viết của ông có tựa đề “Con tố cha, vợ tố chồng” có đoạn viết:” Trong lịch sử dân tộc VN, chưa bao giờ đạo lý làm người bị đảo điên cách quái đản như trong thời kỳ CCRD. Con cái phải bịa chuyện gian dối đấu tố cha mẹ (mà Trường Chinh đã đấu tố cha ruột đến chết để làm gương).”.

Thứ tư, trong cuốn sách “Quê hương niềm đau và nỗi nhớ “ của tác giả Huy Vũ (Nguyên quán làng Bản Nguyên, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Theo gia đình di cư vào Nam 1955. Đậu Tú Tài I và II ban Toán năm 1957 và 1958. Là Thí Nghiệm Viên của Chương Trình Diệt Trừ Sốt Rét từ năm 1959 tới 1963. Đậu Cử Nhân Luật năm 1964). Trong chương 8 của cuốn sách có tên là - Chiến Dịch Đấu Tố Địa Chủ ở Làng Tôi có viết : ” Đặc biệt họ cũng nêu ra một tấm gương sáng chói để tôi noi theo là ông Trường Chinh, tuy là con trai của một đại địa chủ, song vẫn được tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí Thư đảng Lao Động Việt Nam. Rất tiếc là chiến dịch PT/PĐQC/ĐTCĐC ở làng tôi đã xẩy ra trước làng Hành Thiện của cụ thân sinh ra ông Trường Chinh Đặng Xuân Khu. Nếu sau, chắc chắn chúng còn cho tôi biết thêm ông Trường Chinh đã tố khổ bố ông ta như thế nào.”.
Và để kể về sự kiện Trường Chinh đấu tố cha mẹ cũng như một trường hợp tương tự ở ngoại thành Hà Nội thì nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã viết một bài thơ khá não lòng:
“Được nghe bà kể khổ
Con thấy đời con thật đáng chết
Con đã đi bóc lột để nuôi bà
Con bây giờ không dám nhận là cha
Dù bà là do con đẻ ra
Con, thành phần địa chủ thối tha
Trước nhân dân, trước Đảng, trước bà
Xin thành khẩn cúi đầu chịu tội”.


Cải cách và đấu tố

Đấu tố

Thứ năm, ngay cả những người giúp đỡ và nuôi giấu mình thì Trường Chinh cũng sẵn sàng giết hại không chút gớm tay. Trong cuộc Phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần (Nguyên Phó Chủ Tịch Ủy ban Hành chính Hà Nội. Ông Nguyễn Minh Cần trong giai đoạn ấy là 1 cán bộ trung cấp. Ông từng là bí thư quận uỷ ngoại thành Hà Nội trước khi ra công khai, trở thành phó chủ tịch uỷ ban hành chính Hà Nội vào năm 1954. Ông thấu hiểu từng bước của cụôc cải cách ruộng đất và đã trực tiếp làm công tác sửa sai sau đó tại ngoại thành HN. Hiện ông Cần sinh sống tại Matxcơva) về sự chuẩn bị của đảng cộng sản và nhà nước VNDCCH trước khi bắt đầu cuộc Cải cách ruộng đất. Cuối giai đoạn chuẩn bị là thí điểm với vụ án bà Cát Thanh Long từng gây xôn xao dư luận một thời. Xin đọc đoạn phỏng vấn như sau:”

PV: Kính chào ông Nguyễn Minh Cần, ông có thể cho biết là ông HCM và đảng CS đã chuẩn bị cho cuộc cải cách ruộng đất như thế nào?

Ông Nguyễn Minh Cần: Trong năm 1951 và 1952 ông HCM đã cùng với Thường vụ trung ương đảng, bây giờ ta gọi là Bộ chính trị, lúc bấy giờ gọi là Thường vụ trung ương đảng, họ chuẩn bị về mọi mặt. Chuẩn bị quan trọng đầu tiên là chuẩn bị về mặt tư tưởng, làm cho cán bộ, đảng viên, quân đội thông suốt về tư tưởng.

 Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.
 Điểm đó là điểm mà xoay chiều tư tưởng rất lớn ở trong cán bộ. Lúc bấy giờ cũng có nhiều cán bộ thắc mắc, đại thể tôi muốn nói một kinh nghiệm, khía cạnh như vậy để thấy rằng lúc đầu tư tưởng của cán bộ cũng không phải nhất trí trong vấn đề đánh địa chủ đâu, mà có những thắc mắc như vậy. Thế nhưng mà những cuộc chỉnh huấn có nhiệm vụ làm thế nào để dẹp hết tất cả những tư tưởng thắc mắc đó để tạo một sự nhất trí bắt buộc ở trong đảng, ở trong quân đội và ở trong các đoàn thể. Trong giới trí thức cũng có những cuộc chỉnh huấn.
 Vì vậy họ đã tiến hành chỉnh huấn và chỉnh quân. Trong này có một điều đáng chú ý nhất, tức là người ta nói rằng trước đây người ta coi địa chủ là một thành phần ở trong nhân dân, mà bây giờ không phải như vậy rồi. Bây giờ địa chủ không phải là nhân dân, nhân dân chỉ là nhân dân và địa chủ tức là những người chống lại nhân dân - kẻ địch của nhân dân.
 Việc thứ hai, chuẩn bị mặt tổ chức thì tôi muốn nói rõ thêm là về mặt tổ chức lúc bấy giờ theo sự phân công giữa Mao Trạch Động và ông HCM thì Stalin có nói rằng Trung Quốc ở gần Việt Nam và đã từng có kinh nghiệm cải cách ruộng đất rồi, thế thì Trung Quốc sẽ giúp cho Việt Nam làm việc đó.
 Vì vậy cho nên Việt Nam mời các cố vấn sang. Tổng cố vấn lúc bấy giờ là Lã Quý Ba, ông ta đồng thời là đại sứ của Bắc Kinh, đại sứ mà lại đồng thời là tổng cố vấn. Tổng cố vấn về quân đội là Vi Quốc Hân?, tổng vấn về cải cách ruộng đất là Triểu Hiểu Quang. Ông này là phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây, là tỉnh cũng đã làm cải cách ruộng đất.
 Như vậy là trùm lên trên về mặt tổ chức là hệ thống cố vấn. Đồng thời về mặt tổ chức thì thành lập cái gọi là Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương, dưới trung ương có các đoàn cải cách ruộng đất. Mỗi đoàn cải cách ruộng đất thì có một đoàn ủy lãnh đạo. Dưới các đoàn là các đội cải cách ruộng đất.
PV: Xin ông nói rõ thêm về đội cải cách ruộng đất, là những người trực tiếp thực hiện và dân chúng còn mô tả là có quyền hành hơn cả Trời. Nhất đội nhì Trời kia mà.
Ông Nguyễn Minh Cần: Mỗi đội cải cách ruộng đất, theo xã to hay nhỏ gồm khoảng 30 hoặc 40 người. Phần nhiều là những người ở các địa phương khác, tức là họ giữ một nguyên tắc là không để cho người địa phương nơi nào phải đi làm cải cách ruộng đất ở nơi ấy. Vì họ sợ như vậy sẽ tạo điều kiện bao che cho tổ chức cũ, bao che cho địa chủ quen biết v.v... Đấy là một nguyên tắc.
 Như vậy là cả một đạo quân để đi làm cải cách ruộng đất. Bây giờ để chuẩn bị một bước thứ ba nữa tức là chuẩn bị mặt chính sách. Năm 1952, Bộ chính trị tổ chức làm thí điểm cải cách ruộng đất ở 6 xã thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, là một tình căn cứ của Việt Minh thời kỳ bấy giờ.  Trong lần thí nghiệm này có 1 sự kiện động trời: tòa án cải cách ruộng đất tử hình bà Nguyễn Thị Năm(còn gọi là Cát Thanh Long)
 PV: Thưa ông, vụ án này nổi tiếng lắm, ông vui lòng kể thêm 1 số chi tiết về vụ án này
Ông Nguyễn Minh Cần: Bà là một người mà thời kỳ trước cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp đỡ các ông lớn nhất của đảng CS lúc bấy giờ là ông Trường Chinh, ông Hoàng Quốc Việt, ông Lê Đức Thọ, ông Phạm Văn Đồng, ông Lê Thanh Nghị và ông Lê Giảng
 Còn trong thời kỳ "Tuần lễ vàng", là sau khi đã có chính phủ VNDCCH rồi thì gia đình bà đã dâng nộp 100 lạng vàng cho chính quyền mới. Bà lại hoạt động trong hội phụ nữ, lại có con trai làm trung đoàn trưởng. Thế mà bà lại bị quy là địa chủ, cường hào gian ác và bị đoàn cải cách ruộng đất xử án tử hình
Ủy ban cải cách ruộng đất trung ương do Trường Chinh cầm đầu đã duyệt và thường vụ trung ương, tức là bộ chính trị cũng đã chuẩn y và tất nhiên cả ông HCM lúc bấy giờ cũng biết sự kiện đó chớ không phải không. Nhưng họ lại lạnh lùng chuẩn y một án tử hình như vậy
Phát súng đầu tiên của cải cách ruộng đất nổ vào đầu 1 người phụ nữ yêu nước, đã từng giúp đỡ cho những người CS! Phát súng đó đã nói rằng nó nói lên nhiều về tâm địa của những lãnh tụ CS, nó báo hiệu trước 1 tai họa khôn lường cho toàn dân ở miền Bắc lúc bấy giờ
 PV: Xin được hỏi thêm ông về vụ xử tử bà Cát Thanh Long. Về sau mỗi khi tòa án tuyên án tử hình thì án được thi hành liền. Thế tại sao án tử hình của bà Cát Thanh Long lại còn phải đưa lên trên để xin ý kiến?
Ông Nguyễn Minh Cần: Vì đây là thí điểm đầu tiên, vừa làm vừa rút kinh nghiệm cho nên có sự thận trọng. Về sau này thì lại khác, tức là quyết định của tòa án là bắn luôn
Từ ngày mùng 1 đến ngày mùng 4/12/1953 thì kỳ họp thứ 3 của quốc hội khóa I, tại đó chủ tịch HCM đọc báo cáo "tình hình trước mắt và nhiệm vụ cải cách ruộng đất". Đến ngày 4/12 thì quốc hội nhất trí thông qua luật cải cách ruộng đất và chủ tịch HCM đã ký sắc lệnh ban hành luật. Từ đó bắt đầu các đợt cải cách ruộng đất
 Lúc đầu, mỗi đợt cải cách ruộng đất thì ở một vùng, số lượng xã ít hơn, nhưng dần dần thì mở rộng ra. Đến năm 1956, tức là đợt 5 là đợt cuối cùng, diễn ra ở hầu hết các đồng bằng Bắc bộ và các vùng trước đây Pháp chiếm
Bà Cát Thanh Long – Nguyễn Thị Năm và các con

Qua đoạn phỏng vấn ông Nguyễn Minh Cần cho thấy lúc đó quyền sinh sát nằm trong tay Hồ Chí Minh và Trường Chinh nhưng họ lại ra tay giết hại chính những người cưu mang mình. Đó là một điều vong bản và bất nhân.

III. Kết luận :
Con người có hai điều chính yếu để kết luận tội vong bản đó là phản bội dân tộc, tổ quốc và phản bội, giết hại cha mẹ và người thân. Chính vì tham quyền lực mà Trường Chinh đã thực hiện cả hai điều này. Và như vậy thì Trường Chinh đích thực là kẻ vong bản không hơn không kém.
Lịch sử và hiện tại đã chỉ ra rằng một đảng vô thần, vô tổ quốc và độc tài đã tạo ra những con người độc ác đến ghê sợ trong đó có Trường Chinh. Ngày hôm nay chúng ta phải trả lại sự thật của lịch sử để cho người dân thấy rằng họ đã bị đảng tập hợp bởi những kẻ độc ác , tán tận lương tâm lừa dối suốt 80 năm qua. Đó chính là lẽ phải mà chúng ta cần phải thực hiện.

Đặng Chí Hùng

Đạo Hồ Chí Minh

Đối với tập đoàn VGCS, vấn đề cốt lõi và ưu tiên hàng đầu của chúng hiện nay là duy trì việc nắm vững quyền lực để giữ của cải ăn cướp được, và đồng thời để bảo tồn các tội ác mà chúng đổi trắng ra đen, diễn dịch là công lao đảng cống hiến cho đất nước. Muốn được như thế, một mặt VGCS phải biến Hồ Chí Minh thành Phật, và như thế đương nhiên đảng trở thành giáo hội. Thâm ý của VGCS là, một khi nhân dân đã tín ngưỡng cái tôn giáo của chúng lập ra rồi thì lịch sử Dân Tộc sau này khó mà kết án Hồ Chí Minh và đảng VGCS về bất cứ tội ác nào chúng đã gây ra được, bởi vì Hồ là thần phật, và đảng CS là giáo hội. Đã là Phật, ai đụng đến Hồ là xúc phạm tín ngưỡng. Là giáo hội, kẻ nào đụng đến đảng CS tức là đàn áp tôn giáo. Đây là con đường khả dĩ bảo đảm nhất cho tập đoàn VGCS chạy tôi trước lịch sử và được trường tồn.


     Hồ giáo hình thành và phát triển được dựa trên hai yếu tố: sự chuyên quyền của VGCS và tính hời hợt dễ dãi của người dân trước quan niệm về tôn giáo của họ. Cả hai yếu tố này tương quan mật thiết và hộ trợ cho nhau. Dựa vào hai yếu tố này, VGCS biến đảng thành đạo và biến Hồ Chí Minh thành Phật không phải là việc bất khả thi. Đối với tập đoàn VGCS, việc làm sao biến bọn đảng viên, lũ người quen “ăn mặn” thành những ông thầy chùa “ăn chay” trường để qua mắt tín đồ mới là chuyện khó. Việc khó này thế mà VGCS cũng đã dễ dàng qua truông. Chính phật tử đã lên tiếng tố cáo các nhà sư cán bộ đảng đang điều hành phật sự tại nhiều nơi ở hải ngoại.


Về mặt lý thuyết, VGCS đặt ra cái nguyên lý đánh đồng hai khái niệm Dân Tộc và Xã Hội Chủ Nghĩa: chủ nghĩa xã hội và dân tộc là một. Mặt khác, vì lợi ích chính trị của đảng, VGCS dựng nên những con người kiểu mẫu có đạo đức cách mạng, thần thánh hóa và đồng hóa những con người trần tục này thành Bồ Tát, tức thành Phật. Loại phật nhân tạo này có đặc tính vì yêu chủ nghĩa xã hội mà trở thành bồ tát. VGCS tạc tượng, xây đền, đưa vào chùa miếu cho dân chúng chiêm bái và thờ cúng. Phật nhân tạo đầu tiên của Hồ giáo chính là Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh là thần phật hay là ác quỉ thì đại đa số nhân dân Việt Nam, lịch sử, và thực tế đã nhận diện ra hắn. Chúng tôi xin miễn dài dòng. Điều làm ngạc nhiên là hành động phản Phật của VGCS như thế mà tuyệt nhiên đại khối Phật tử trong cũng như ngoài nước, từ hàng giáo phẩm đến tín đồ bình thường, không một ai lên tiếng phản bác. Phật giáo quốc doanh đã đành rồi, nhưng còn Phật giáo VN Thống Nhất, còn gọi là Ấn Quang? Có phải đúng như dân gian thường nói: làm thinh là tình đã thuận không? Nếu đại khối Phật giáo VN không minh bạch phản bác hành vi phi phật này của VGCS thì trong tương lai chuyện gì sẽ xẩy ra. Có thể nhìn thấy trước là, chỉ sau vài thế hệ nữa thôi, Hồ giáo sẽ trở thành một tôn giáo vững mạnh tại VN. Các nhà viết sử sau này liệu có can đảm viết thực về “bồ tát” Hồ Chí Minh không? Và lúc đó, chính quyền hậu CS (giả thiết đất nước đã dân chủ) có dám đem cái đầu lâu Hồ liệng đi không? Không sợ các ông sư Ấn Quang la làng với thế giới là chính quyền đán áp Phật giáo sao?
 Đạo Hồ Chí Minh 



 
Sự tiếp tay quảng bá tà giáo của Đài truyền hình VTV1
 

Chọn lọc toàn bộ Video về đạo Hồ Chí Minh mê tín dị đoan


Hồ Chí Minh - Sản phẩm của nạn mê tín di đoan  
Hiện tượng Hồ Chí Minh là vết nhục có một không hai trong lịch sử Việt Nam. Những thế kỷ sau mọi sự thật về con người Hồ Chí Minh chắc chắn sẽ được trần truồng lôi ra ánh sáng như một con ác quỷ. Một câu truyện tiếu lâm mà người nước ngoài sẽ mang ra để nhạo báng chế riễu người Việt Nam? 
Tôi không tin người Việt Nam quá ngu xuẩn và đần độn đến mức mất hết cả lý trí và cảm giác, nhận thức, hiểu biết, đánh giá, nhận xét về Hồ Chí Minh. Nhưng vì sao lại ra cớ sự này? Một con người trình độ học vấn  quá kém cỏi, bất tài, tàn nhẫn, dâm dục, nhân cách kém cỏi, bỉ ổi đê tiện như vậy lại được người đương thời xây tượng trong chuà, xây lăng để giữ xác?
Phải  chăng người Việt Nam là một dân tộc thích chuyện thần thánh mê tín dị đoan, một dân tộc thích nghe chuyện cổ tích, chuyện hớt lẻo, thích những tin đồn đại ở các quán nước vỉa hè?
Kể cũng đúng thôi, từ ngày có đảng và cái chủ thuyết Mác Lê Nin.  Nguồn gốc từ một anh chàng thanh niên thích mơ mộng hão huyền dưới 30 tuổi, Các Mác và Ăng Ghen viết ra. Giai cấp bần cùng đã đón nhận thuyết đấu tranh giai cấp một cách mù quáng. Thực ra đó chỉ là những lập luận để đạo đức hoá, hợp pháp hoá cho những hành động cực đoan điên cuồng thích giết người, say máu người cuả một tập đoàn đần độn mang nhiều bản năng thú tính.
Nếu chuyện giết người chỉ do lòng sân hận bộc phát thiếu suy nghĩ cuả một nhóm người thì cũng chẳng đáng nói làm gì. Cái đáng nói là họ tổ chức thành một đảng hẳn hoi, có chính cương điều lệ, có nắm tay thề nguyện dưới đảng kỳ. Nếu cái đảng giết người này có lá cờ với cái đầu lâu và hai khúc xương để chéo lên nhau thì tất nhiên sẽ chẳng ai muốn theo và mọi người sẽ biết ngay nó là một tổ chức cướp biển, những tên hải tặc gian ác.
Nhưng nếu cũng với những tên thổ phỉ, hải tặc, bần cố nông vô sản này tự bỏ đi lá cờ đầu lâu với hai xương chi để chéo nhau mà thay vào đó một lá cờ  đỏ sao vàng cuả tỉnh Phúc Kiến bên Trung Hoa và tên tướng cướp là một ông già giản dị với ba chòm râu dê và đôi dép cao xu lúc nào cũng thỏ thẻ mũi dãi dầm dề thì bạn sẽ nghĩ sao?
Cảm giác bên ngoài và óc thiếu suy luận, cộng với nạn mê tín dị đoan vô tình ta đã đưa tên cướp biển, gian ác, hiểm độc này lên thành một vị thánh. Đảng cộng sản đã khéo lợi dụng tâm lý nhân dân, thờ cúng  bái vật, sùng bái vua chuá có truyền thống từ lâu đời, nạn mê tín dị đoan để lưà đảo mê hoặc bần cùng luôn đa đa số. Đã ngu lại cho ngu thêm một thể.
Chuyên chính vô sản là một lợi thế cho bọn cướp biển khoác áo nông dân này. Chúng nhân danh vì dân để tiêu diệt chính nghiã. Kẻ thù cuả chúng lại chính là tầng lớp trí thức sĩ phu. Chỉ có họ mới hiểu bản chất nham hiểm cuả những tên hung thần giết người không chớp mắt này, được ngụy trang khéo léo bằng ba chòm râu dê với đôi dép cao xu, vài củ hành hay điã muối vừng…
Kẻ tiểu nhân cũng có thể là một tên tướng cướp, không cần to béo gân guốc, săm trổ, mặt đỏ râu dài như Quan Vân Trường, hay dữ tợn như Trương Phi. Hắn có thể hom hem như Hồ Chí Minh, gầy guộc như con tép mắm, hay giống như thủ hạ cuả hắn lùn tịt với tấm thân ngũ đoản, sức trói gà không chặt cũng có thể làm một đại tướng như Võ Nguyên Giáp chẳng hạn.
Tầng lớp bồi bút ăn lương chỉ có một mơ uớc là biạ chuyện viết văn thơ thật hay, viết đẹp về đảng cướp, về lãnh tụ cuả đảng. Một người viết thì bình thường, nhưng trăm người, ngàn người, vạn người sẽ tranh nhau, bon chen, dèm pha nhau, nói xấu nhau , để được viết những bài thơ văn phiạ ra hay ho về đảng và lãnh tụ thì quả là một nghiệp trướng thảm hoạ cuả dân tộc. Cái ngẫu nhiên tưởng như tiếu lâm tân thời này, bỗng trở thành hiện thực. Nhà nhà, người người thi nhau viết hay về Hồ, biạ chuyện thần thánh, biạ ra những giai thoại vờ vịt về Hồ. Họ đã hư cấu biến Hồ từ một con cóc ghẻ xấu xí trở thành con công có bộ lông đẹp huyền ảo để mọi người chiêm ngưỡng, ngắm nghiá, tưởng nhớ và mơ mộng.
Gần một thế kỷ qua  người Việt Nam nhất là các vùng nông thôn rộng lớn có thói quen nhìn Hồ như một con công đẹp, thói quen này đã trở thành bản năng sinh tồn như máu và thịt vậy. Bây giờ có ai bảo Hồ không phải là con công đẹp như họ tưởng mà chỉ là con cóc ghẻ thôi. Nhiều người có thói quen mê tín, sùng bái vật… Họ sẽ điên khùng lên coi như là một sự xúc phạm ngay chính họ vậy.
Sự sùng bái mê tín dị đoạn đã làm những đảng viên trung thành trước khi bị mang ra xử bắn vì bị quy là điạ chủ là một trò cười trong cuộc đấu tố cải cách điền điạ sau năm 1954. Mà bản án bắn họ lại do chính Hồ Chí Minh ký? Đôi mắt họ long lanh nhìn lên ảnh Hồ Chí Minh và nghẹn ngào hô to: Hồ Chí Minh muôn năm, đảng lao động Vìệt Nam quang vinh muôn năm….
Ở trong nước có 700 cơ quan nhật báo, tạp chí, truyền thanh, truyền hình thi nhau, cạnh tranh nhau để được cắm thêm lông công cho con cóc ghẻ đang nằm trơ xác ra ở Ba Đình. Nếu có ai nhổ bớt đi một cái lông thì sẽ bị quy cho là phản động, bị bỏ tù, bị tra khảo và bị đánh đập.
Ở hải ngoại các văn thi sĩ, các nhà nghiên cứu, các trí giả vì tiếng gọi cuả lương tâm mà đang làm cái việc nhổ dần lông công. Hồ Chí Minh sự thật không phải là con công đẹp mà chính là một con cóc ghẻ cuả lịch sử. Vạch trần sự thật Hồ Chí Minh và đánh đổ thần tuợng Hồ, đã trở thành lương tri  nhân phẩm cuả thời đại.
Tất nhiên hiện nay những kẻ cơ hội vẫn còn cố bám viú vào cái thây ma Hồ để sống. Có những kẻ ăn nói rất hàm hồ dữ tợn, chuyên chửi bậy văng tục, những tên công an ác ôn giết người, đánh người, hiếp dâm, cướp vợ các sĩ quan miền Nam cộng hoà. Chúng rất bỉ ổi tàn nhẩn, sẵn sàng tụt quần bóp dái, đốt lông dái các cụ già và cười sằng sặc như chúng đã đối sử với các vị hoà thượng trong chuà. Nhưng chính bọn này lại lên mặt đạo đức bênh vực Hồ.  Chúng bảo với nhau  rằng: Hồ là bậc tiền nhân già cả, là người đã chết ta phải kính hiếu và tôn trọng. Hãy để hình tượng ông ta đẹp như con công  đừng làm chuyện nhổ lông công nưã, để ông ta  trơ ra, trần trụi như con cóc ghẻ là thất đức. Họ coi rẻ mạng sống gần 10 triệu người Việt Nam  đã chết oan uổng tức tưởi từ khi có Hồ xuất hiện. Những người chết oan này là vì họ là dân đen. Còn Hồ là thánh thần cần phải đối xử khác đi theo truyền thống bái vật cuả dân tộc. Hãy nghĩ đến cuộc sống cuả 85 triệu đồng bào thống khổ và đừng làm gì trái với lương tâm. Hồ Chí Minh không phải là thánh thần là con công đẹp mà hắn chính là một tội nhân thiên cổ, một con cóc ghẻ bên lề đường cuả lịch sử nhân loại.                          Lu Hà


Nguyễn Tấn Dũng: NHỮNG KẺ CƯỚP NGÀY

Tuyển chọn những Bài viết của Đặng Chí Hùng: BÚT THÉP: ĐẶNG CHÍ HÙNG      

Cũng cần phải nói qua câu chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1964 Nguyễn tấn Dũng đang học lớp 6 thì vào bưng theo du kích để khủng bố nhân dân . Trong bưng Dũng vừa “đánh Mĩ cứu nước” vừa theo học bổ túc văn hoá . Đến năm 1975 tốt nghiệp Y sĩ nhân dân và về đảm nhiệm chức vụ Thủ trưởng bệnh viện huyện Hà Tiên . Vừa phấn đấu để lập thành tích, vừa học hỏi để phục vụ tốt cho Đảng, Dũng đã chứng tỏ là đảng viên trung kiên và là thành phần trí thức nòng cốt , tài sản hiếm quí của Đảng . Nhờ sự học uyên bác trong quản lý kinh tế nên Dũng đã được Đảng tin tưởng và giao cho trọng trách Trưởng ban tiêu diệt tư sản mại bản tỉnh Rạch giá . Trong đợt đánh tư sản mại bản năm 1978 tỉnh Rạch giá dưới sự chỉ đạo của  Dũng đã đạt thành tịch vượt chỉ tiêu, nêu cao ngọn cờ đầu trong công tác tiêu diệt tư sản . Sau đó được Dũng được đề bạc nên Thiếu tướng CA nhân dân tỉnh và đã lập thành tích rực rỡ nhờ bắt trọn ổ “phản động” Trần văn Bá. Sự kiện Dũng phong tướng cho Bùi Tuyết Minh tại Kiên Giang vừa qua chính là sự trả ơn cho mánh khóe làm ăn của 3 Dũng khi còn ở Rạch Giá. Xin xem thêm “Trùm mật vụ bắt người vượt biên trở thành 'bà tướng đầu tiên' của ngành CA” của tác giả Bảng Đỏ




Ngày hôm nay, những sự thật đã phơi bày, đảng cộng sản đã cho thấy mình là một đảng cướp ngay từ nhũng ngày đầu khi cướp chính quyền của cụ Trần Trọng Kim, cướp thành quả của nhân dân thông qua “đóng góp cho cách mạng” và CCRĐ. Không còn cách nào khác toàn thể đồng bào trong và ngoài nước phải đứng lên tố cáo tội ác của cộng sản để lật đổ bọn cướp ngày đã hơn 80 năm qua cướp bóc của dân tộc Việt Nam.

Trong “Bản cáo trạng tội ác của cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh” phần 5 tôi đã gửi tới bạn đọc tội ác của cộng sản trong việc cướp tài sản của đồng bào thông qua đánh tư sản hoặc đẩy đi vùng kinh tế mới. Đó là bản cáo trạng nên sự việc đó phải thu gọn để gửi tới các cơ quan như LHQ, tòa án hình sự quốc tế. Trong khuôn khổ bài viết này. Tôi xin trình bày cụ thể những âm mưu của đảng và điểm mặt những kẻ chủ mưu cũng như trực tiếp điều hành cộm cán.

Sau khi đánh cho “Mỹ cút – Ngụy nhào” để đến nỗi bà Dương Thu Hương – một cán binh theo đoàn quân vào Sài Gòn đã phải thốt lên “kẻ chiến thắng là kẻ man rợ” thì đảng cộng sản bắt đầu thực hiện chính sách cướp ngày của mình. Đứng đầu chủ mưu cũng như thực hiện âm mưu của đảng cộng sản là Đỗ Mười, Mai Chí Thọ, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và tầng dưới là Võ Văn Kiệt, Nguyễn Tấn Dũng…
Tất cả chỉ một mục tiêu đó là đem của cải của người dân Miền Nam về miền Bắc làm của cải cho đảng mà ngay chính nhân dân Miền Bắc cũng không được thừa hưởng. Trong cuốn hồi ký “Đại Học Máu “ của Hà Thúc Sinh đã mô tả sau năm 1975, mặc dù cướp được kho thuốc khổng lồ của VNCH nhưng người dân Miền Nam,Miền Bắc và cả bộ đội cộng sản cũng không có thuốc để dùng đành chờ chết trước những căn bệnh rất đơn giản như kiết lỵ..trong khi đó đảng lại viện trợ cho một nước Venezuela xa xôi mấy tầu thuốc loan báo trên đài như một hành động anh hùng của đảng. Những kẻ cướp ngày của chính nhân dân Việt Nam đã dùng chính tài sản cướp được của nhân dân để vinh thân phì gia và cũng đồng thời tô điểm cho bộ mặt toàn son phấn rẻ tiền của đảng cộng sản.


I. Cướp Tài sản của nhân dân và đẩy dân đi “kinh tế mới”:

Để cướp đoạt tài sản và tiền của thì đảng cộng sản đã tiến hành chính sách đánh tư bản, đổi tiền và tịch thu tài sản của nhân dân dưới mỹ từ “đánh gian thương”, “tiểu tư sản”. Hậu quả đó là hàng triệu người bị cướp nhà giao cho cán bộ, bị mất cơ nghiệp và bị đẩy đi kinh tế mới. Kết quả X-2 và X-3, với “công lao to lớn” của Đỗ Mười, Mai Chí Thọ... thu được khoảng hơn 4.000 kg vàng, gần 1.200.000 đô la, và một khối lượng hàng hóa không thống kê hết. Từ chiếc xe hơi, TiVi, tủ lạnh, đến bịch bột giặt, quả trứng gà đều khê khai và tịch thu chất trong các kho, để rồi không cánh mà bay, hoặc biến thảnh phế thải. Xin quý vị theo dõi những chứng cứ dưới đây để thấy được sự thật này.

                    Đánh tư sản sau năm 1975



Thứ nhất, trong cuốn sách “Bên thắng cuộc” của tác giả Huy Đức có đề cập đến chiến dịch cướp bóc này. Tác giả Huy Đức đã viết ở Chương iii - Đánh tư sản như sau: “Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.

“Chiến dịch X-2”

Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê...”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.



Rồi cũng chính Huy Đức - một cựu nhà báo cộng sản cho biết thêm: “Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.”



Ngoài bắt bớ ra, nhà cầm quyền cộng sản còn tiến hành chính sách đổi tiền để vơ vét tiền vào túi dưới hình thức: cướp trắng. Tác giả Huy Đức mô tả sự kiện đổi tiển như sau: “Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.



Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123. Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn chế.

Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người 15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được đổi 100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.”



Song song với đánh tư sản và đổi tiền, chính quyền cộng sản còn áp dụng biện pháp “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” mà tác giả Huy Đức Miêu tả như sau: “Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là “Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển khai với “bàn tay sắt”.”




(Bạn đọc có thể tìm hiểu trong cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức hoặc xem tại link sau đây:





Thứ hai, trong lịch sử thì sự kiện vơ vét tiền của nhân dân sau năm 1975 ở Việt Nam không phải là lần đầu tiên. Lần đầu tiên phải là cuộc cải cách ruộng đất vì theo thống kê chính thức của nhà nước Việt Nam được đăng trong cuốn “Lịch sử kinh tế Việt Nam” (tập hai) cho biết là đã có 172.008 người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông (trong đó có 123.266 người bị quy sai, hơn 70%, tức là bị oan). Lần thứ hai này, đánh “tư sản mại bản”, tịch thu tài sản hàng triệu người, đuổi người dân đi “kinh tế mới”, vào “hợp tác xã”. Nền kinh tế bị thiệt hại kinh hoàng, TRỰC TIẾP gây ra nạn THUYỀN NHÂN chưa từng có trong lịch sử nhân loại, từ 100 ngàn đến 300 ngàn người bỏ mạng ngoài biển khơi.



Trên báo tuổi trẻ online của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam có bài viết về một người từng tham gia chiến dịch cướp bóc của quần chúng nhân dân Miền Nam. Bài viết có đoạn trích như sau: “Sau tháng 4-1975, nhà báo Đinh Phong cùng nhóm phóng viên truyền hình túc trực ngày đêm theo những tổ công tác làm công việc “kê biên tài sản” của những nhà tư sản Sài Gòn ở chợ Bến Thành, chợ Tạ Thu Thâu... Đó là một thời điểm khó quên nhưng ai cũng muốn quên. Ông Đinh Phong (ủy viên Ủy ban MTTQ VN TP.HCM, nguyên phó giám đốc Đài truyền hình TP.HCM) hồi tưởng về những ngày ông và nhiều đồng nghiệp được ban tuyên huấn giao những nhiệm vụ đặc biệt nhưng bí mật đến phút cuối cùng. Ngay cả cái tên của những chiến dịch này cũng được mã hóa thành X1, X2... Những tổ công tác mật được gấp rút thành lập, bắt đầu rà soát, lên danh sách những hộ gia đình kinh doanh, những gia đình giàu có phải “cải tạo tư sản”. Nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch này là bí mật. Những nhà tư sản chỉ bàng hoàng nhận biết những gì xảy ra khi cửa mở và tổ công tác đặc biệt bất ngờ có mặt, đọc quyết định “kê biên tài sản”.”






Thứ ba, cũng nói về con số thống kê “thành tích” cướp bóc của nhân dân Miền Nam, Trong cuốn sách “Thông tin lịch sử của TP.HCM” của ủy ban nhân dân TPHCM có cho biết: “Cho đến ngày giải phóng 1975, Sài Gòn đã có một cơ sở vật chất, kinh tế kỹ thuật lớn nhất miền Nam, nơi tập trung hơn 80% năng lực sản xuất công nghiệp cả miền Nam. Nơi đây tập trung hơn 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8.548 cơ sở công nghiệp tư nhân. Để công hữu hóa tư liệu sản xuất và đưa công nhân lao động làm chủ nhà máy, xí nghiệp, sau năm 1975 chính quyền cách mạng đã tiến hành vận động hai đợt cải tạo công thương nghiệp. Kết quả là đã quốc hữu hóa tài sản của 171 tư sản mại bản, 59 tư sản thương nghiệp cỡ lớn...”



Trên thực tế ở Việt Nam thì việc “quốc hữu hóa” chính là việc nhà cầm quyền cộng sản cướp của dân rồi đem làm tài sản riêng cho đảng viên và các quan chức lãnh đạo thụ hưởng.






Thứ tư,  Đi kèm với chính sách đánh tư bản là chính sách dồn nhân dân vào những vùng hoang sơ , rừng thiêng nước độc sau khi đảng đã cướp hết tài san và nhà cửa của nhân dân. Đảng cộng sản không cung cấp phương tiện sản xuất và nhà cửa cho nhân dân. Trái lại còn đẩy họ đi khỏi thành phố lao động khổ sai với nhãn mác “đi vùng kinh tế mới”.

                 Dân đi kinh tế mới sau 1975







Đánh tư sản, đuổi dân đi kinh tế mới




Bắt học sinh xuống đường "bài trừ văn hóa phản động"




Một thanh niên bị bắt đeo bảng trước ngực và đi lòng vòng địa phương nơi cư trú, dưới sự giám sát của bộ đội cộng sản. Tội danh : Nhảy đầm. Sau đó còn phải thọ án 1 năm trong trại cải tạo.

Và đây là điển hình cho cái gọi là "Tòa án nhân dân"





Thứ năm, Hãy cùng đọc bức thư sau đây của một gia đình là nạn nhân cộng sản đang sống tại Việt Nam để chúng ta thấy sau năm 1975 đảng cộng sản đã cướp những gì của nhân dân:

“Kính Gửi: Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh Đảng CSVN

Bộ Chính Trị Trung Ương (TW) Đảng CSVN


Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội do Đảng CSVN cầm quyền.

Chúng tôi có tên dưới đây:


Huỳnh Ngọc Cảnh, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp AMATA Đồng Nai.

Nguyễn Tấn Hoành, đại diện một số anh chị em Khu Công nghiệp Điện Bàn Quảng Nam.

Nguyễn Tấn Dung, đại diện một số anh chị em công nhân khu công nghiệp Biên Hoà II

Dương Thái Phong, Huỳnh Tiến, Trương Long, Vũ Hà, Trần Tá, Võ Hải, Nguyễn thị Tuyết, thuộc khu công nghiệp Tân Bình và khu chế xuất Vĩnh Lộc.

Hoàng Anh Tuấn, Công Ty Giày da Gia Định, quốc lộ 13 Thủ Đức, Tp. Saigon


Thưa quý Ngài lãnh đạo Bộ Chính Trị TW Đảng CSVN

Ngày trước miền Nam 1975, gia đình chúng tôi chưa được cách mạng giải phóng. Cha mẹ chúng tôi có nhà, có đất làm ăn khấm khá chưa biết làm thuê làm mướn là gì. Trong thời đó những nhà thương gia Ấn Độ, kỹ sư người Nhật, Hàn Quốc vào miền Nam làm thuê và mua bán. Họ hoàn toàn lệ thuộc vào người dân Việt Nam. Sau năm 1975, miền Nam được cách mạng giải phóng khỏi ách nô lệ, Đảng hô hào nâng đỡ và đấu tranh cho hai giai cấp công nhân và nông dân. Chính lá cờ Đảng CSVN thể hiện biểu tượng búa, liềm. Sự thật có phải như vậy không? Thưa, sự thật rất phũ phàng! Sau khi chiếm được miền Nam là cải tạo công thương nghiệp, đánh tư sản mại bản thì gia đình chúng tôi bị mất nhà, mất đất. Trong khi chúng tôi có tiền dư thóc để, thì chúng tôi bị lấy nhà và bị đuổi đi vùng sâu nước độc để khai phá đất hoang làm ăn. Do những cơn sốt rét vàng da, có những gia đình chết phân nửa, có những gia đình phải chết hết. Khi trở về thành phố thì nhà cao cửa rộng, ruộng vườn của mình thì bị cán bộ đảng viên thu. Điều này chúng tôi có nói sai đâụ Những villa nhà lầu hiện nay là nhà của đảng viên, thì thử hỏi cha ông của mấy ông này mua nhà đất từ thời nào để lại cho mấy ông đảng viên này, nếu không phải cướp của chúng tôi thì từ đâu mà có. Cuộc đời chúng tôi còn sống thì vẫn còn bị cướp. Đời Cha tôi bị cướp, đời tôi cũng bị cướp. Những gia đình chúng tôi lên vùng kinh tế mới khai hoang được vài ba mẫu đất làm ăn, cuộc sống chưa ổn định thì trò cướp bóc lại theo đuổi theo người dân nghèo chúng tôi, kế đến là chiêu thức kêu gọi đầu tư rước ngoại bang vào, lại tiếp tục lấy đất của chúng tôị Bằng nhiều chiêu thức gạt gẫm lừa bịp gian manh quỷ quyệt, trù dập vu khống chụp mũ.”


II.  Nạn thuyền nhân vượt biển:




Thuyền nhân đang lênh đênh tìm đường thoát khỏi cộng sản



Chính vì cướp sạch kinh tế, nhà cửa và đầy đọa quân dân cán chính VNCH mà đảng cộng sản Việt Nam đã đây người dân Miền Nam tới nạn "thuyền nhân" để kiếm tìm sự sống mới. Trên thực tê không chỉ có X1 và X3 đánh kinh tế, nhà cầm quyền cộng sản còn dùng X2 để đánh văn nghệ sỹ không theo cộng sản. Chính vì thế toàn Miền Nam là một trại tù khổng lồ, người dân đã phải chấp nhận đánh đổi mạng sống trên những con thuyền lênh đênh ngoài khơi để trốn chạy cộng sản. Bạn đọc có thể tìm hiểu về chiến dịch X2 qua bài viết của một người nạn nhân:



“Tôi bị bắt ngày 5 tháng 4 năm 1976, trong cái trò bắt người mà cộng sản gọi là “chiến dịch X2 đánh Văn Nghệ Sĩ phản động”. Chiến dịch X1 trước đó "đánh" tư sản mại bản (tức những nhà tỷ phú người Việt và người Việt gốc Hoa, đa số ở Chợ Lớn). Có 3 nhà tỷ phú người Việt bị bắt là cụ Hoàng Kim Quy (cựu Thượng Nghị Sĩ đệ nhị VNCH), hai anh em vua tầu thủy Phạm Quang Khai và Phạm Quang Hoa. Trước và sau tôi bị bắt vài ngày có hơn trăm người gồm đủ bộ môn văn nghệ Miền Nam (Văn, Thơ, Báo chí, Nhạc, Kịch, đạo diễn điện ảnh, đạo diễn Cải lương có đôi chút tên tuổi). Đa số giam ở T20 (số 4 Phan Đăng Lưu bên hông chợ Bà Chiểu, Gia Định) vài người đi khám Chí Hòa. Khoảng mười tháng sau một số lớn được tha về, chỉ còn mươi người bị quy kết tội “có nợ máu nhân dân” và “chống cộng ở thượng tầng kiến trúc” bị giữ lại. Đây là những “tội” có thể đưa tới tử hình. Sau hai năm tra vấn hỏi cung xong, họ đưa bọn tôi lên trại Gia Trung (xứ sương mù Pleiku) nằm trong khu rừng già, nghe nói trước đây là mật khu của Việt cộng, để lao động khổ sai.” Trích bài viết: “Những ngày tháng tù đày không thể quên” của tác giả Thanh Thương Hoàng.


Thậm chí khi tác giả này đã ra tù và có chính sách HO thì cũng bị nhà cầm quyền cộng sản gây khó dễ: “Nhưng tất cả đều vô vọng. Lần nào cũng vậy, hai lần, tôi “ôm” hồ sơ xin xuất cảnh tới Sở Ngoại Vụ đường Nguyễn Du đều được các viên chức hữu quyền (công an CS) trả lời dứt khoát: “Nhà Nước không có chính sách cho anh xuất cảnh. Bọn lính cũ không có súng ống đâu còn đánh được chúng tôi nhưng với bọn anh chỉ một cây viết vẫn có thể chống phá chúng tôi như các anh đã làm trước đây. Anh nên biết bên đó bọn báo chí phản động nhiều như nấm”. Thế là con đường sống bị triệt. Hết hy vọng, hết chờ mong. Tôi đành sống kiếp mạt rệp - một thứ công dân hạng bét - ngay trên quê hương đất nước mình.





Nạn thuyền nhân đã bắt đầu sau khi nhà cầm quyền cộng sản trả thù quân dân cán chính VNCH và cướp đi nguồn sống của nhân dân Miền Nam. Xin quý vị có thể đọc những tài liệu sau đây để thấy rõ điều đó.



Thứ nhất, trên VOA Việt ngữ đã có bài viết thống kê về con số thuyền nhân và những người không may mắn như sau: “Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975 - và trong cả hai thập niên kế tiếp - hàng triệu người Việt đã vượt biển, vượt biên tìm tự do. Ngày nay, người ta thường chú ý đến tập thể cựu thuyền nhân, 'bộ nhân' đã sống sót và định cư thành công ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Úc. Cũng trong hai thập niên đen tối ấy, trên 300 ngàn thuyền nhân Việt Nam đã tử nạn trong rừng sâu, trên biển cả và tại các trại tị nạn ở Đông Nam Á. Rải rác khắp nơi tại các trại tị nạn cũ - từ Thái Lan, Malaysia đến Indonesia và Philippines, hàng ngàn ngôi mộ thuyền nhân đã bị bỏ quên - cho đến khi tổ chức Văn khố Thuyền nhân Việt Nam phát động chương trình thăm viếng và trùng tu mộ phần cho những đồng bào xấu số.”



Đây là những con số biết nói cho thấy cộng sản là loài thú dữ đã gây nên cảnh tang thương cho dân tộc Việt Nam chúng tôi. Chúng tôi kính mong quý vị xem xét và làm rõ tội ác tày trời này của cộng sản Việt Nam. Bài báo trên có thể xem tại: http://www.voatiengviet.com/content/ky-niem-ngay-30-thang-4-thuyen-nhan-viet-nam-tu-nan/1651015.html

Khu mộ tưởng niệm các thuyền nhân tị nạn ở Galang.





Thứ hai, trong một tập tài liệu ấn hành vào năm 2000, mang tựa đề “The State of the World’s Refugees 2000, 50 years of Humanitarian Action,” viết về tình trạng tị nạn thế giới, để đánh dấu 50 năm hoạt động nhân đạo của Liên Hiệp Quốc, Bà Sadako Ogata, Cao Ủy Trưởng Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, đã nói về lòng can trường của hàng triệu người tị nạn và lánh nạn trên thế giới đã mất tất cả, ngoại trừ niềm hy vọng, và đã vượt qua biết bao thử thách và chông gai để đi tìm con đường sống. Bà Ogata đã tuyên dương những người này là “Những người sống sót vĩ đại của Thế Kỷ 20”. Cuốn sách cho biết:



“Ngay từ cuối năm 1975, những đợt người tị nạn Việt Nam đã bắt đầu đến lánh nạn tại các nước lân bang. Vào những ngày đó, Thái Lan đã đón nhận 5.000 người tỵ nạn từ Việt Nam qua, tại Hồng Kông cũng đã có 4.000 tị nạn, Tân Gia Ba 1,800 người, và có khoảng 1.250 người cũng đã đến Phi Luật Tân. Vào tháng 7 năm 1976, khi chế độ Hà Nội loại trừ bộ máy quản chế miền Nam của Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam để thực hiện việc thống nhất hai miền, cưỡng chế người dân đi vùng kinh tế mới, và tập trung trên một triệu người miền Nam vào các trại tù cải tạo, những làn sóng di tản bằng đường biển bắt đầu gia tăng. Và đến cuối năm 1977, đã có trên 15.000 người Việt sang tị nạn tại các nước trong vùng Đông Nam Á. Cho đến năm 1978, khi nhà cầm quyền Cộng Sản phát động chính sách cải tạo tư sản, và tiếp theo đó là việc xua quân xâm chiếm Cam Bốt, và phải đương đầu với cuộc chiến biên giới với Trung Quốc, làn sóng tị nạn bằng đường biển đã tăng lên gấp bốn lần, với đa số người ra đi thuộc khối người Việt gốc Hoa, để sau đó được đưa sang định cư tại các tỉnh phía Nam Trung Quốc.


Vào cuối năm 1978, đã có 62.000 thuyền nhân người Việt tị nạn tại các nước Đông Nam Á. Riêng trong tháng 6 năm 1979, đã có trên 54.000 thuyền nhân Việt Nam đến tị nạn tại các nước nói trên. Những làn sóng tị nạn này đã khiến cho các nước trong khối Đông Nam Á, như Mã Lai Á, Thái Lan, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba và Nam Dương tuyên bố không nhận thêm người tị nạn từ Việt Nam, khiến cho những đợt thuyền nhân đến sau đã bị xua đuổi cấm không cho lên bờ. Cũng kể từ đó, con số thuyền nhân tử vong trên biển cả cũng đã gia tăng.



Sau những cuộc hành trình hãi hùng lênh đênh trên đại dương, một số thuyền nhân cũng đã đến được bến bờ tạm dụng. Những lớp người này đã đem cho thế giới bên ngoài những mẫu chuyện về người cha, người mẹ, đã phải chia nhau những hạt cơm rơi từ miệng những đứa con; đến chuyện chia nhau từng giọt nước quý hơn vàng được vắt ra từ miếng vải thấm mưa, để đánh lừa những cơn đói khát triền miên. Hay là những chuyện thương tâm về người chết đã cứu được người sống với thịt máu của chính mình. Hoặc nữa là những chuyện nói nhỏ, kể về những trường hợp phải đương đầu với hải tặc. Ngoài những mối đe dọa do sự đầy đọa của con người đối với con người, những thuyền nhân này còn phải đương đầu với những cơn thịnh nộ của thiên nhiên. Những cơn phong ba bão táp đã khiến cho không biết bao nhiêu thuyền nhân làm mồi cho biển cả. Không ai dám phỏng đoán với mỗi người có cơ may đặt chân lên bến bờ tự do, đã có bao nhiêu người hy sinh trên đại dương.



Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lê thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tầu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.”



Thứ ba, theo cuốn video tài liệu của Ủy Ban Cứu Nguy Người Vượt Biển về con tầu J. Charcot, sau 20 ngày tìm vớt ngoài khơi Việt Nam: “tầu đã vớt được 520 người, thành phần tuổi tác như sau:Từ 14 đến 30 tuổi có 269 người, tức 51,73%. Học trò có 224 em, gồm 136 nam, 88 nữ, chiếm 43,08%. Người trên 50 tuổi chỉ có 11 người, chiếm 2,11%. Người có nghề nghiệp là 218 người, chiếm 41,92% gồm 154 đàn ông và chỉ có 64 đàn bà... Với thành phần trẻ chiếm đa số và nhất là giới học trò đã làm cho Thế giới rúng động ở mức độ khinh hoàng về cuộc ra đi của người Việt. Hàng trăm ký giả, các nhà xã hội và tôn giáo thiện nguyện đổ xô về Đông Nam Á quan sát thảm nạn thuyền nhân khi những chiếc tầu chở hàng ngàn thuyền nhân đổ bộ lên đảo hoang Pulau Bidong, Galang...



Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm tại link sau: http://saigontimesusa.com/bai/thuyennhan/thuyennhan1132.shtml



Thứ tư, trên trang chính của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam có đăng tải lại một trong những thảm kịch của thuyền nhân Việt Nam chạy trốn cộng sản: “Sáng 1-12-1978, bão lớn kéo đến. Chẳng bao lâu sau tầu chìm. 170 người thiệt mạng. 150 người sống sót.123 thi hài được chon chồng chất 4 lớp lên nhau trong nghĩa trang Cherang Ruku. 46 thi hài khác được mai tang 3 ngày sau đó tại nghĩa trang Balai Bachok, cách Cherang Ruku 30km về hướng Bắc”.



Bạn đọc có thể xem tại link sau: http://www.vnbp.org/vbpgraves/gayquyHouston/cr/CR.htm




Thứ năm, cho đến ngày hôm nay, sau hơn 80 năm cai trị Việt nam thì đảng cộng sản vẫn còn những người ra biển tìm tự do. Xin quý vị chú ý đến bài báo trên RFA sau đây: “Hiện nay vẫn còn có những người Việt Nam phải bỏ nước ra đi bằng thuyền như phong trào thuyền nhân vượt biển cách đây gần 40 năm sau thời điểm 1975. Hãng thông tấn AP hôm nay loan tin tính đến lúc này trong năm nay có 460 người Việt Nam tìm đến được bến bờ nước Úc. Đây là con số bằng cả năm năm qua gộp lại. Tàu chở thuyền nhân Việt Nam mới nhất đến được đảo Christmas Island của Úc là vào hồi tháng trước. Chiếc tàu có số hiệu đăng ký tại tỉnh Kiên Giang. Đây là tỉnh có khoảng cách đến đảo Chirstmas Island hơn 2300 kilomet... Một thuyền nhân có tên Trương Chí Liêm 23 tuổi khi AP liên lạc được qua điện thoại từ Trung Tâm Giam giữ Người Nhập cư Villawood, nằm ở ngoại vi Sydney, cho biết là anh ta thà chết ở trại chứ không để bị cưỡng bức về lại Việt Nam. Người này rời Việt Nam cách đây 5 năm và bị bắt giam ở Indonesia 18 tháng khi đang trên đường tìm đến Úc.”.






Thứ sáu, còn rất nhiều bằng chứng về thuyền nhân Việt Nam, chúng tôi xin gửi đến ban đọc những đường links đến các video mô tả một trong những sự kiện bi thương của dân tộc Việt nam chúng tôi mà đảng cộng sản chính là những kẻ thủ ác.








Đôi mắt thất thần của những người Việt trong trại tỵ nạn



BẠN ĐỌC HÃY ĐỌC BÀI VIẾT CỦA GABRIELE VENZKY TRÊN BÁO DIE ZEIT (THỜI ĐẠI) ĐÃ GIẢI CỨU 275 NGƯỜI VIỆT NAM TỊ NẠN VỀ ĐẾN HAMBURG ĐỂ THẤY THÊM SỰ THẬT HÃI HÙNG VỀ TỘI ÁC CỘNG SẢN:
” Câu chuyện bắt đầu năm 1978. Cuộc chiến tranh Việt nam đã kết thúc được 3 năm. Cảnh tượng những máy bay trực thăng Mỹ cuối cùng cất cánh bay khỏi Sài gòn, dưới càng máy bay còn bám theo bao nhiêu con người hỏang lọan tột độ vẫn còn hằn sâu trong tâm trí chúng ta, và cả làn sóng tị nạn sau đó. Và bây giờ thì dòng người ra đi khỏi Việt nam vẫn không muốn dứt, lần này họ tìm cách vượt biển.

Họ đi trên những chiếc thuyền chài nhỏ và chen chúc đến nghẹt thở hướng về một phương trời vô vọng, không cả bản đồ và compas, cuối cùng sóng đánh trôi dạt đâu đó vào các bờ biển Đông nam châu Á, vào những mỏm đá bên bờ biển Hồng kông, nếu là may mắn. Nhiều người không gặp may. Họ bị hãm hiếp, đánh chết hay bị ném xuống biển và chết đuối. Cứ hai thuyền chở tị nạn vào vùng biển Thái lan thì một thuyền bị cướp. Cứ ba người thì một người bỏ mạng trên đường, người ta tính ra khỏang một nửa triệu ngưuời đã chết như thế.”





Tuy nạn thuyền nhân là có thật và ai cũng biết đó là do cộng sản gây nên, nhưng đảng cộng sản đã phủ nhận nó bằng những lời ngụy biện. Trên báo Quân Đội Nhân Dân – cộng sảnngày 31-8-2007, tướng Nguyễn Đình Ước viện trưởng Viện Lịch Sử Quân Sự Việt Nam phát biểu “nạn thuyền nhân là chuyện có thật” nhưng nguyên nhân vì “sau chiến tranh, đất nước bị tàn phá nặng nề mà Việt Nam còn bị bao vây, cấm vận về kinh tế.” Viên tướng này diễn tả xã hội Việt Nam hoàn toàn tốt đẹp, không có chuyện bức chế bất kỳ ai, không có nỗi thống khổ nào và khẳng định nạn thuyền nhân là “âm mưu hậu chiến của Mỹ ”, bởi sau khi cấm vận gây khó khăn kinh tế cho Việt Nam, “họ lại kích động, đưa ra viễn cảnh thiên đường ở bên ngoài gây nên tình trạng có một bộ phận người Việt Nam bỏ đất nước ra đi. Không ít người đã thiệt mạng trên biển do bị chìm thuyền, bị bọn đưa người vượt biên trái phép lừa gạt giết chết. Đó đúng là một thảm cảnh nhưng là hệ quả do những chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài.”. Nhưng thử hỏi đảng cộng sản và ông Ước là tại sao cho đến ngày hôm nay, sau 38 năm cướp được trọn vẹn Miền Nam mà vẫn có thuyền nhân, vẫn có người tỵ nạ trên đất Thái, Nga, Mã Lai…? Liệu đảng còn đổ thừa cho ai nữa?


III. Điểm mặt một số gương mặt kẻ cướp:



Đảng cộng sản chính là tội đồ của dân tộc gây nên chiến tranh và cướp bóc. Tội đánh cướp nhà cửa, tài sản …của nhân dân rồi đẩy họ đi kinh tế mới hoặc lênh đênh trên thuyền tại Biển Đông cũng không là ngoại lệ. Nổi bật trong số những trùm sò của đảng, xin điểm mặt một số kẻ cướp ngày tiêu biểu .



Thứ nhất,chính Mai Chí Thọ trong 1 bài phỏng vấn đăng trên tờ báo điện tử cộng sản Vietbao.vn đã thừa nhận những hành động cướp bóc của mình một cách công khai: “Trầm ngâm một lát, bác Tám Cao (Mai Chí Thọ) đúc kết: “Sau chiến thắng 30/4/1975 với chủ trương “Tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”, ngay sau khi giải phóng, TW đã giao nhiệm vụ cho TP. HCM phải bắt tay ngay vào chiến dịch mang bí số X1 và X2 với nội dung “Cải tạo kinh tế tư bản chủ nghĩa” vẫn được quen gọi là “Đánh tư sản mại bản”. Chiến dịch X1, thì tạm được bởi chúng ta thực hiện cải tạo những tư sản có liên quan tới đế quốc, dù trong số họ không ít người chỉ thuần túy “làm kinh tế”.”



Rồi cũng chính Mai Chí Thọ thừa nhận: “Nhưng đến nửa chừng rà soát lại gần 2.000 “đối tượng X2”, thì chỉ đúng có... 3 đối tượng! Chủ trương duy ý chí này đã làm sa sút ghê gớm, biến dạng diện mạo cũng như nội lực của thành phố, xóa đi hết những ưu thế, cơ sở vật chất sẵn có của “Hòn ngọc Viễn Đông...”. Không khí cải tạo ồ ạt, tịch thu, tịch biên tài sản của các đối tượng “X1, X2”, đem về đổ dồn, chất đống đầy các kho không chứa xuể, phải tấp táp đâu đó, sau một thời gian ngắn, những tài sản này phần thì biến mất, số còn lại hư hỏng trở thành một đống đổ nát khổng lồ...




Đồng bào hãy nhớ đây là một tên cướp ngày




Từ một thành phố hưởng thụ, một Trung tâm công nghiệp lớn nhất, vậy mà chỉ sau mấy năm khi “Chiến dịch X1, X2” đi qua, toàn bộ nền sản xuất công nghiệp của thành phố bị tê liệt tới mức cạn cùng: Nguyên vật liệu không còn, viện trợ từ các phía bị cắt đứt, cơ sở vật chất xuống cấp nhanh chóng, máy móc phương tiện “đắp chiếu” ngủ triền miên hết năm này sang năm khác. Nền kinh tế của thành phố như thoi thóp, lạm phát gia tăng chóng mặt từ 15,3% đến 31% vào năm 1979; từ 20% năm 1980 đến 40% năm 1981, cộng với thiên tai, mất mùa, tăng viện cho cuộc chiến phía Tây Nam, số người thất nghiệp ngày càng gia tăng. Rồi dịch bệnh tràn lan, phương tiện, thuốc men thiếu thốn đủ thứ khiến cho đời sống người dân ngày càng lâm vào cảnh cùng cực. Có nhiều người không chịu đựng nổi phải vượt biên.”



Qua những gì chính Mai Chí Thọ lúc đó là giám đốc công an Sài Gòn thừa nhận đã cho thấy hậu quả khủng khiếp mà cộng sản gây ra cho nhân dân Việt Nam. Đây là tội ác không thể tha thứ.






Thứ hai ,cũng là gương mặt cộm cán chủ mưu cùng Mai Chí Thọ là Đỗ Mười. Chính Nguyễn Văn Linh trong một lần hội nghị ở T78 đã nói thẳng với Đỗ Mười: “Anh Mười tưởng rằng làm Uỷ viên Bộ chính trị là to lắm, muốn nói gì thì nói, muốn làm gì thì làm, muốn phê bình ai cũng được… Anh Mười đứng dậy nói: “Tôi nói đó là tinh thần Bôn-sê-vich” (Trích”Làm người là khó” – Đoàn Duy Thành – cựu phó thủ tướng nhà cầm quyền cộng sản).Ông Đoàn Duy Thành cho biết Pham Văn Đồng đánh giá về cải tạo công thương Nghiệp của Đỗ Mười: “Có lần tôi hỏi anh Tô (Phạm Văn Đồng): “Còn Đỗ Mười thì sao?”.  Anh Tô suy nghĩ hai ba phút rồi nói:  “Chỉ có phá !”.


Khi chiến dịch X-3 đã bắt đầu.


Đỗ Mười đọc Quyết định của Thủ tướng, đọc Chỉ thị 100 – CP, và triển khai kế hoạch cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại thành phố Sài Gòn (đã bị đổi tên thành Tp.HCM) và các tỉnh phía Nam.  Đỗ Mười nói: “Từ sau giải phóng chúng ta đã thực hiện X-1, tập trung bọn ngụy quân, ngụy quyền học tập cải tạo. Đã thực hiện X-2 đánh bọn tư sản mại bản. Bây giờ chiến dịch X-3, quyết liệt nhất, nhằm tiêu diệt tận gốc rễ chủ nghĩa tư bản, tay sai  đế quốc Mỹ…Đánh rắn phải đánh dập đầu, ta đã đánh dập đầu rồi, nhưng con rắn tư bản đánh dập đầu nó chưa chế, cái đuôi nó còn nguy hiểm hơn cái đầu. Không giần cho nát cái đuôi của nó, thì nó vẫn tác oai tác quái phá chúng ta…Cho nên chúng ta phải róc thịt chúng ra. Bắt chúng lao động sản xuất, tự làm lấy mà ăn. Phải biết cày ruộng, cấy lúa, trồng ngô. Đất hoang còn nhiều, bắt chúng  đổ mồ hôi sôi nước mắt  kiếm miếng ăn …”

Đỗ Mười kết thúc buổi triển khai chiến dịch X-3, bằng một mấy cái chém tay như có ‘thượng phương bảo kiếm: “Anh nào, chị nào nhụt ít chí thì lui ra một bên. Kẻ nào tỏ ra nhân nhượng với bọn tư sản là phản bội giai cấp, không phải Bôn – sê- vích, có tội với đảng với dân, sẽ bị trừng trị!”.


7 giờ sáng hôm sau, ngày 23-3-1978, tất cả các cửa hàng kinh doanh to nhỏ, đủ mọi ngành nghề, ngóc ngách, đóng cửa, án binh bất động theo lệnh của Uỷ ban nhân dân thành phố. Một bản thông báo ngắn gọn do ông Vũ Đình Liệu thay mặt UBND thành phố ký được ban hành ngay sau  đó, xác nhận “Chiến dịch X-3”, bắt đầu .Và Tất cả các cơ sở kinh doanh, buôn bán, nhà hàng, cửa hàng, kho tàng, trung tâm dịch vụ bị niêm phong. Danh sách đã được lên từ trước.


Đỗ Mười và đàn em Võ Văn Kiệt vui mừng vì cướp được của nhân dân Miền nam





Thứ ba,  Lê Đức Thọ nắm toàn quyền thực sự trong đảng CSVN từ đại hội 3 năm 1960 với sự đồng tình của tổng bí thư Lê Duẩn. Không ai có thể ngờ vực uy quyền tuyệt đối của Thọ, được gọi một cách kinh sợ là Sáu Búa. Theo hồi ký "Viết cho Mẹ và Quốc Hội" của ông Nguyễn Văn Trấn (xuất bản năm 1993), uy quyền của Thọ lớn đến nỗi ông có thể cấm cả ông Hồ phát biểu trong một hội nghị mà ông Hồ cũng đành chịu. Được ông Trấn hỏi về ông Lê Đức Thọ, ông Tôn Đức Thắng, chủ tịch nước, thú nhận một cách mộc mạc: "Đ.M., tao cũng sợ nó!". Theo nhiều nhân chứng, Thọ từng xác quyết nhiều lần: "Đảng là tao!". Mặc dù Thọ không chính thức là nhân vật số 1 trong đảng; trong danh sách Bộ Chính Trị ông chỉ đứng hàng thứ năm, sau các ông Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng. Nhưng Thọ lại là người nắm bộ máy đảng và là nhân vật quyền lực nhất.Thọ có thể bắt giam những cộng sự viên của các nhân vật này mà không ai dám chống lại hoặc đích thân chỉ huy những công tác quan trọng nhất của chế độ khi cần: Giám sát Hội Nghị Paris và trực tiếp thương thuyết với Mỹ; Chỉ huy cuộc tổng tấn công dứt điểm  chiềm Miền Nam năm 1975 với vai trò chính ủy. Và chính quyền lực của Lê Đức Thọ đã giúp không nhỏ cho đảng CSVN có những hành động khủng khiếp như  Cải cách ruộng đất; Phát động cuộc chiến với Miền Nam; Tổng công kích Tết Mậu Thân 1968; Chiến dịch mùa hè đỏ lửa 1972. Tất cả những sai lầm đó gây thiệt hại ghê gớm cho đảng và chế độ, đồng thời cũng là những thảm kịch đối với Việt Nam. Đặc biệt là sau năm 1975,Thọ cũng tham gia vào việc quyết định “đánh tư sản” tại Miền Nam. Trong văn kiện đại hội đảng năm 1979 chính Thọ đã khẳng định: ”Với đường lối đúng đăn của bộ chính trị và toàn đảng, chúng ta đã quét sạch được lũ tư bản mại bản và lấy lại những gì của chúng…


Hãy nhớ lấy đây cũng là gương mặt của tên cướp ngày


Thứ tư, Cũng cần phải nói qua câu chuyện của Nguyễn Tấn Dũng. Năm 1964 Nguyễn tấn Dũng đang học lớp 6 thì vào bưng theo du kích để khủng bố nhân dân . Trong bưng Dũng vừa “đánh Mĩ cứu nước” vừa theo học bổ túc văn hoá . Đến năm 1975 tốt nghiệp Y sĩ nhân dân và về đảm nhiệm chức vụ Thủ trưởng bệnh viện huyện Hà Tiên . Vừa phấn đấu để lập thành tích, vừa học hỏi để phục vụ tốt cho Đảng, Dũng đã chứng tỏ là đảng viên trung kiên và là thành phần trí thức nòng cốt , tài sản hiếm quí của Đảng . Nhờ sự học uyên bác trong quản lý kinh tế nên Dũng đã được Đảng tin tưởng và giao cho trọng trách Trưởng ban tiêu diệt tư sản mại bản tỉnh Rạch giá . Trong đợt đánh tư sản mại bản năm 1978 tỉnh Rạch giá dưới sự chỉ đạo của  Dũng đã đạt thành tịch vượt chỉ tiêu, nêu cao ngọn cờ đầu trong công tác tiêu diệt tư sản . Sau đó được Dũng được đề bạc nên Thiếu tướng CA nhân dân tỉnh và đã lập thành tích rực rỡ nhờ bắt trọn ổ “phản động” Trần văn Bá. Sự kiện Dũng phong tướng cho Bùi Tuyết Minh tại Kiên Giang vừa qua chính là sự trả ơn cho mánh khóe làm ăn của 3 Dũng khi còn ở Rạch Giá. Xin xem thêm “Trùm mật vụ bắt người vượt biên trở thành 'bà tướng đầu tiên' của ngành CA” của tác giả Bảng Đỏ tại links:



Đây là một tên cướp ngày của cộng sản


IV. Kết Luận :

Sau khi cướp sạch tài sản của nhân dân Việt Nam thì đảng cộng sản tiếp tục đẩy họ ra biển với cái chết lên đến 9/10. Những chính sách tàn bạo của đảng cộng sản là không thể bao biện và hết sức tàn ác. Không những thế , để xóa nhòa tội ác của mình đảng cộng sản còn tiếp tục gây tội ác với cả những thuyền nhân đã chết . Theo tờ Jakarta post ngày 20/6/2005 cho biêt là chủ tịch nước của cộng sản Việt Nam đã yêu cầu Indonexia phá bỏ văn bia thuyền nhân bằng tuyên bố “Khẩn cấp đập tượng đài” vì lý do”Xúc phạm tới Việt Nam” và cho rằng những nạn nhân chết thảm trên Biển Đông là do:”Chính sách chống phá Việt Nam từ bên ngoài”.

Ngày hôm nay, những sự thật đã phơi bày, đảng cộng sản đã cho thấy mình là một đảng cướp ngay từ nhũng ngày đầu khi cướp chính quyền của cụ Trần Trọng Kim, cướp thành quả của nhân dân thông qua “đóng góp cho cách mạng” và CCRĐ. Không còn cách nào khác toàn thể đồng bào trong và ngoài nước phải đứng lên tố cáo tội ác của cộng sản để lật đổ bọn cướp ngày đã hơn 80 năm qua cướp bóc của dân tộc Việt Nam.

Đặng Chí Hùng