VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ CHÍNH TRỊ NHƯ MỘT TOÀN THỂ

VĂN HÓA, GIÁO DỤC VÀ CHÍNH TRỊ NHƯ MỘT TOÀN THỂ

Trần Chính Trung -

1. TỪ GIẢ THUYẾT ĐẾN THỰC TẾTrong một cuốn Giáo Khoa Thư bậc tiểu học vào thập niên 40 có một bài cách trí mở đầu bằng một câu như sau: Thân thể người ta chia ra làm ba phần: đầu, mình và chân tay... Để cụ thể hóa thêm cái tinh thần phân tích trên, phía tay trái trang sách có vẽ thêm một hình nhân mà đầu với hai chân, hai tay được tách rời thân mình thành những phần tử biệt lập, trơ vơ và chết cứng
Trên báo chí Việt ngữ, trong sinh hoạt cộng đồng của Việt kiều hải ngoại trong những năm gần đây, độc giả và khán thính giả vẫn thường được đọc, được nghe những câu tuyên bố đại loại như Văn Hóa thuần túy! Giáo dục phi chính trị! Thậm chí có cả tổ chức cựu quân nhân, những người đã từng đem xương máu đổi lấy tự do, thề sống chết cho lý tưởng Tổ Quốc trên hết, cũng lên tiếng là không dính đến chính trị!
Vậy Chính Trị là gì? Giáo Dục là gì? Văn Hóa là gì? Chúng có mối tương quan ảnh hưởng ra sao khi cả ba đều có chung một đối tượng: Con Người và Xã Hội, và cũng có chung một mục đích: làm cho Con Người và Xã Hội được Hạnh Phúc trong Hòa Bình, Ấm No?
Bài viết này sẽ chứng minh sự liên hệ chặt chẽ giữa Văn Hóa, Giáo Dục và Chính Trị như một toàn thể qua thực tế lịch sử đầy những kinh nghiệm đau thương dưới thời Pháp thuộc và trong cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa chúng ta, những người Việt Quốc Gia và bọn Việt Cộng phản dân tộc.
2. ĐỊNH NGHĨA
2.1. Văn Hóa
Theo nghĩa chữ, Văn là vằn vết, văn vẻ như trong chữ Văn Thạch là đá có văn vết, có vân tức là đá hoa. Hóa là làm biến mất, làm thay đổi hình tướng như trong chữ Hóa Trang, Tiêu Hóa. Gồm cả hai chữ, Văn Hóa có nghĩa là dùng cái hay cái đẹp, cái tốt để biến hóa, để chinh phục, để thay đổi con người và xã hội. Đó là nhìn Văn Hóa trên phương diện động của một phương tiện. Dưới khía cạnh tĩnh, Văn Hóa có nghĩa là dấu vết của Đạo Đức, Chính Trị, Giáo Dục, Kỹ Thuật... gồm tất cả những sinh hoạt tinh thần, vật chất của con người đã được thể nghiệm, đãi lọc trong xã hội, ở một thời điểm nào đó trong dòng sống, còn, tiếp, nối, tiến, hóa đến vô cùng của loài người.
Để làm công tác văn hóa, người xưa đã phải: Quan hồ thiên văn dĩ sát thời biến, quan hồ thiên văn dĩ hóa thành thiên hạ — xem tượng trời mà biết được thời tiết biến đổi và xét biểu hiện của Nhân Tính (Ý, Tình, Chí) mà hiểu được Người để từ đó hướng dẫn Nhân Loại đi lên tới chỗ Chân, Thiện, Mỹ.
2.2. Giáo Dục
Theo nghĩa chữ, Giáo là dạy dỗ như trong chữ Giáo Sư, Chỉ Giáo. Dục là nuôi cho khôn lớn như trong chữ Đức Dục, Trí Dục, Thể Dục. Gồm cả hai chữ, Giáo Dục có nghĩa là dạy cho khôn, cho ngoan, cho tài, cho giỏi, nuôi cho lớn, cho mạnh. Vậy Giáo Dục gồm đủ cả hai phần tạo nên con người là tinh thần và vật chất. Giáo Dục vì vậy không thể thiên trọng tinh thần mà lãng quên vật chất theo kiểu Duy Tâm, và cũng không chỉ chấp nhận vật chất mà chối bỏ tinh thần như người Cộng Sản Duy Vật. Trái lại Giáo Dục phải hợp Nhân Tính đi theo đường lối trung dung Duy Nhân đào tạo một con người mẫu thăng bằng, gồm một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể cường tráng.
2.3. Chính Trị
Theo nghĩa chữ, Chính là đúng, là phải, như trong chữ Chính Thức, là ngay thẳng như trong chữ Công Chính. Trị là sửa chữa như trong chữ Trừng Trị. Gồm cả hai chữ Chính Trị có nghĩa là sửa trị làm cho đúng, cho ngay, cho phải, cho tốt như người xưa đã nói: “Chính giả, chính dã!” vậy.
Phân tách sự cấu tạo của chữ (chiết tự) thì chữ Giáo trong Giáo Dục và chữ Chính trong Chính Trị đều thuộc bộ Phộc, có nghĩa là đánh khẽ. Trừng phạt là một hình thức chế tài mà trong Giáo Dục thường biểu lộ bằng roi vọt, rầy la — trong Chính Trị thường biểu lộ bằng những tòa án và hình luật. Nghĩa là Giáo Dục và Chính Trị đều mang tính chất chủ động và tích cực, cũng như đã được định hướng nhằm tới một lý tưởng, thực hiện một khuôn mẫu nào đó. Nhưng Phộc có nghĩa là đánh khẽ, tức là luật pháp chế tài được dùng để răn đe, ngăn ngừa trong mục đích hướng thượng đưa nước nòi đến Hạnh Phúc, trong Hòa Bình và Phú Cường. Sự hà khắc trong Chính Trị và sự nghiệt ngã trong Giáo Dục đều là những sai lầm đều phải sửa chữa, vì nó chà đạp con người chứ không phù trợ con người. Do đó, người xưa đã có câu: “Hà chính mãnh ư hổ giả!”, chính sách hà khắc bạo tàn còn đáng sợ hơn loài cọp dữ.
Con người không thể sống đơn lẻ, trơ vơ, mà phải sống trong một tương quan xã hội. Ý nghĩa của cuộc sống con người là: Sống cùng người, sống với người, sống bên người và sống vì người. Con người sống trong một tương quan đa diện với tha nhân, với xã hội nên việc làm cho ngay thẳng, cho chính đáng, cho đúng mức, cho hợp lý mối Nhân Luân Cương Thường là việc quan trọng hàng đầu so với các việc khác trong xã hội. Và Nhân Đạo, Chính vi đại — trong đạo làm người thì việc Chính Trị được coi quan trọng hơn cả là vậy!
Mục đích của Chính Trị, là tạo nên sự hòa hài giữa những con người sống trong xã hội, những đoàn thể sống trong quốc gia, và những quốc gia trong cộng đồng nhân loại. Mục đích của Chính Trị là giải quyết ổn thỏa những tranh chấp, xung đột tinh thần và vật chất gây ra do sự mâu thuẫn quyền lợi giữa những cá nhân, giữa những tầng lớp, giữa những đoàn thể và những quốc gia, tạo được tình trạng ổn định, điều kiện cần thiết để xã hội phồn thịnh.
3. VĂN HÓA NHƯ MỘT TOÀN THỂ (A WHOLE)
Phần định nghĩa trên, đã phát lược nội dung của từ ngữ Văn Hóa, Giáo Dục và Chính Trị. Những từ ngữ này đuợc phân tách một cách rõ rệt trên lý thuyết để làm nổi bậc lên những đặc tính thuộc cơ năng (functional), nhưng trên thực tế chúng liên hệ với nhau trong một sự chặt chẽ, mật thiết có tính cách cơ cấu (structural) như những phần tử làm nên một thực thể bất khả phân ly. Cũng giống như trên thực tế con người không thể phân chia làm ba phần, năm mảnh một cách ngắn, gọn theo kiểu đầu, mình và chân tay trừ phi đó là một hình nhân hoặc đó là một cái thây ma đang bắt đầu thối rữa.
3.1. Thể tĩnh của Văn Hóa
Văn hóa, nhìn dưới khía cạnh tĩnh có thể được coi như bảng liệt kê những tiến bộ trên mọi mặt mà một cá nhân, một xã hội, một quốc gia đã đạt được ở vào một thời điểm nào đó trong cuộc tranh đấu để sống, còn, nối, tiếp, tiến, hóa. Do đó, khi đem những nền Văn Hóa so sánh với nhau tất sẽ có những khác biệt về trình độ cao thấp, trên những phương diện Kỹ Thuật, Khoa Học, Quân Sự, Kinh Tế, Thương Mại, Chính Trị, Giáo Dục… cũng như sẽ tìm thấy những sự khác biệt về bản chất như trọng tinh thần hay vật chất, nặng tinh thần bảo thủ hay đầy tính chất sáng tạo, cầu tiến và khai phóng. Vì vậy dưới khía cạnh tĩnh, Văn Hóa bao gồm Giáo Dục, Chính Trị.
3.2. Thể động của Văn Hóa
Văn Hóa, nhìn dưới khía cạnh động, là một dòng sinh mệnh bắt nguồn từ quá khứ, đang diễn tiến trong hiện tại và chuẩn bị những dự phóng cho tương lai. Như một dòng sinh mệnh, tất nhiên Văn Hóa cũng có sống, có chết, có lúc thăng trầm với những thịnh suy thường tình. Lịch sử nhân loại đã ghi dấu để hoài niệm biết bao nền văn hóa đã suy tàn, nền văn hóa của đế quốc, của những dân tộc đã một thời vang danh mà lý do cạnh tranh sinh tồn trong cuộc đãi lọc khắc nghiệt của lịch sử đã bị đào thải để rồi lãnh thổ bị phân chia, bị sát nhập, dân tộc bị đồng hóa, bị tiêu diệt. Lịch sử nhân loại cũng đã ghi dấu, như những bài học để chúng ta suy nghĩ, về sự cường thịnh và bành trướng ảnh hưởng của những nền văn hóa Tây phương mà đi đôi với những đặc tính cao đẹp của lý tưởng đề cao con người — Nhân Chủ — là những ác tính yêu ma biểu lộ qua hành động thực dân xâm lược, trong mưu đồ nô lệ hóa để bóc lột đến tận cùng xương tủy những dân tộc nhược tiểu trên khắp thế giới, dưới những chiêu bài Khai Hóa, Viện Trợ, Giải Phóng…v.v...
4. PHƯƠNG TIỆN ĐỂ BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY VĂN HÓA
Văn Hóa là một dòng sinh mệnh. Để sống, còn, tiếp, nối, tiến, hóa, Văn Hóa cần phải được rao giảng, truyền bá, phát huy. Mức độ lớn mạnh của Văn Hóa tỷ lệ thuận với số người thông hiểu và thực hành qua cách sống, nghĩ, và làm theo những mô thức mà Văn Hóa đã quy định. Xin hãy so sánh sự phổ biến và thông dụng của sinh ngữ Anh, Pháp trên thế giới với những từ ngữ La, Hy, Phạn mà chỉ có một thiểu số các nhà chuyên môn về nghiên cứu thông hiểu. Để rao giảng, truyền bá, phát huy, Văn Hóa cũng cần tới những phương tiện. Phương tiện thì rất nhiều nhưng trong phạm vi bài này chỉ xin trình bày về hai phương tiện: Giáo Dục và Chính Trị.
4.1. Vai trò Giáo Dục đối với Văn Hóa
Người ta có thể nói một cách thật chính xác: Không có Giáo Dục thì không có Văn Hóa! Thực vậy, không có Giáo Dục làm công việc trồng người, huấn luyện người để Nối, Tiếp những truyền thống cao đẹp từ lâu đời để lại của những thế hệ ông, cha, để Tiếp Thu những cái hay, cái mới, cái tốt của người, rồi từ những cơ sở tinh thần và vật chất đó, để tạo thành những phát minh hướng dẫn bước Tiến Hóa của nước, của nòi và của cả nhân loại thì Văn Hóa sẽ ngưng đọng như một cái xác khô. Nghiên cứu về những duyên cớ gây ra sự suy tàn của một nền Văn Hóa thì một trong những yếu tố chính là Giáo Dục. Một nền Giáo Dục đã không làm tròn chức năng đào tạo đúng những mẫu người, những tài năng cần thiết, những trí óc sáng suốt phù hợp cho nhu cầu thời đại của xã hội, của quốc gia trong một giai đoạn khó khăn khi có xung đột với cường địch, ngoại bang. Chiến tranh là bạo lực với những quy luật tàn nhẫn của nó: mạnh được yếu thua. Đời một kẻ chiến bại khi nước mất nhà tan thì những sở hữu nhỏ bé nhất cũng chẳng thể bảo vệ nổi như người xưa từng cảnh cáo “Ngã điền tha nhân canh, ngã thê tha nhân phối, Ngã tử tha nhân nô” (ruộng ta người cày, vợ yêu của ta người bắt làm tỳ thiếp, con ngoan của ta người đầy đọa làm tôi đòi) huống hồ điều to lớn như Văn Hóa, nền tảng tinh thần để quật khởi của cả một nước nòi, làm sao địch thù có thể nương tay không phá hoại.
Ý thức được tầm quan trọng của Giáo Dục trong việc tồn vong của một nền Văn Hóa và suy rộng ra là sự sống chết của một nước nòi, nên Giáo Dục đã được nâng lên tầm vóc của một chính sách, được trông coi thi hành bởi một bộ riêng, Bộ Giáo Dục. Với những cường quốc, việc Giáo Dục đã không giới hạn trong lãnh thổ quốc gia mà đã lấn sang những nước năm trong quỹ đạo ảnh hưởng của họ, như trường hợp Việt Nam dưới thời Pháp thuộc và ngay cả dưới thời Đệ I và Đệ II Cộng Hòa, đã có hai nền giáo dục song hành, một do Bộ Giáo Dục trông coi và một do Tòa Đại Sứ Pháp phụ trách, được coi như là quyền lợi văn hóa của Pháp mà Việt Nam có bổn phận phải tôn trọng như những điều khoản của hiệp ước bất bình đẳng đã được ký kết giữa hai nước Pháp – Việt. Dù muốn biện hộ cách nào chăng nữa sự kiện trên đã nói lên hai ý: Một là sự mất chủ quyền của Việt Nam trên phương diện giáo dục mà những người có trách nhiệm lãnh đạo vì vong bản, vì đầu óc tự ti và vọng ngoại đã không tranh đấu đòi hỏi. Hai là tham vọng đế quốc vẫn được nuôi dưỡng đợi thời qua những cơ sở giáo dục trực thuộc Tòa Đại Sứ hay Lãnh Sự Pháp trên lãnh thổ miền Nam.
Người ta cũng có thể nói mà không sợ sai lầm: Không có Chính Trị thì không có Văn Hóa. Văn Hóa là một sự tích lũy những công trình tinh thần và vật chất. Sự tích lũy đó đòi hỏi hai điều kiện căn bản, thời gian và sự ổn định của xã hội tức không gian. Không có hai điều kiện đó Văn Hóa không thể phát triển, tiến hóa mà ngược lại là thoái hóa và suy vong. Mục đích của Chính Trị, như đã trình bày ở phần định nghĩa, là tạo một sự hòa hài giữa những con người, giữa những tầng lớp, giữa những đoàn thể trong quốc gia. Tạo được sự hòa hài tức là tạo được sự thống nhất trong ý chí của toàn dân, và sức mạnh siêu đẳng của một quốc gia phát sinh từ sự thống nhất ý chí của toàn dân. Đường lối chính trị sáng suốt của nhà Trần qua những Hội Nghị Bình Than — thống nhất ý chí của các vương hầu, tôn thất và Diên Hồng — thống nhất ý chí của các tầng lớp nhân dân — đã tạo nên những chiến công hiển hách của dân tộc. Dòng sinh mệnh văn hóa dân tộc không những đã được sống, còn, để tiếp nối mà đã tiến lên cao hơn với những thăng hoa của tình tự nước nòi ở trong một hoàn cảnh đất nước thanh bình thịnh vượng sau khi đánh bại ngoại xâm.
Nếu chính trị như một phương cách bảo tồn và phát huy văn hóa thì chính trị với những sai lầm của người có trách nhiệm hoạch định đường lối, chính sách quốc gia cũng có thể đưa đến sự suy thoái trong dòng sinh mệnh văn hóa của một dân tộc. Nó có dấu hiệu rõ rệt là một xã hội thối nát, một tập thể mua quan bán tước, tham nhũng, mâu thuẫn giữa tầng lớp dân chúng, tinh thần sa đọa, trụy lạc, hủ bại và cầu an ở các thế hệ thanh niên, lực lượng chính để bảo vệ Văn Hóa, cơ sở tinh thần của nước nòi. Trong một tình trạng nguy nan như thế thì sự mất chủ quyền quốc gia chỉ là vấn đề thời gian. Với âm mưu khuynh loát quốc tế, những đế quốc đủ màu xanh, trắng, đỏ trong tham vọng trở thành bá chủ thế giới sẽ không bỏ lỡ cơ hội để nhúng tay can thiệp một cách khéo léo dưới chiêu bài hoa mỹ: Chiến tranh cách mạng hay chiến tranh giải phóng các dân tộc nhược tiểu mà báo chí thế giới từ mấy chục năm qua vẫn thường xuyên nhắc tới. Khi đã mất chủ quyền chính trị tất sẽ mất chủ quyền văn hóa. Mất nước là mất tất cả, kể từ mạng sống cá nhân cho đến vận mạng cả một dân tộc được thể hiện trong dòng sinh mệnh văn hóa.
 
5. VĂN HÓA, CHẤT LIỆU ĐỂ
ĐỊNH HƯỚNG VÀ THIẾT KẾ
5.1. Chính Sách Giáo Dục
Sự liên hệ giữa Văn Hóa, Giáo Dục và Chính Trị có tính cách cơ cấu nên mối tương quan giữa chúng là song phương. Vì tính cách hai chiều này, câu nói Không có Giáo Dục sẽ không có Văn Hóa cũng vẫn đúng nếu đảo nghịch lại: Không có Văn Hóa sẽ không có Giáo Dục. Thật vậy, Giáo Dục luôn luôn đòi hỏi một nội dung, một đối tượng, một mục đích và những phương án để thi hành. Giáo Dục là một hành động. Như một hành động có ý thức, Giáo Dục bắt buộc phải trả lời thỏa đáng những khúc mắc: Dạy ai? Dạy cái gì? Dạy để làm gì? Dạy như thế nào? Tìm được giải đáp đúng tất sẽ định hướng được giáo dục, sẽ vạch ra được những cương lĩnh, những nét chủ yếu mà một nền giáo dục phải theo. Nhưng để làm tốt đẹp công tác định hướng và dự phóng giáo dục trên, những người có trách nhiệm hoạch định phải có một cơ sở tinh thần vững chắc để làm nền tảng xây dựng lập trường như một khởi điểm đi tới tương lai. Cơ sở tinh thần đó chính là văn hóa ở thể tĩnh đã được trình bày ở phần trên.
Căn cứ trên văn hóa như một cơ sở tinh thần, như một hệ thống tư tưởng bao gồm vũ trụ quan, nhân sinh quan, chính trị quan, Giáo Dục đã định hướng tiến cho xã hội, cho nước nòi và dự phóng đào tạo một mẫu người lý tưởng hợp với trào lưu tiến hóa của thời đại lịch sử. Nền giáo dục tâm học truyền thống Á Đông đã tạo được những mẫu người quân tử, những đẳng cấp sĩ phu xứng đáng, ngẩng lên không thẹn với trời, cúi xuống không ngượng với đất. Nền Giáo Dục Âu Châu cũng đã một thời tạo nên mẫu người hiệp sĩ đa tài và đa tình, mẫu người chính nhân (gentleman). Nền giáo dục đại chúng Mỹ đang tạo ra những mẫu người chuyên môn có khả năng kỹ thuật cao để đáp ứng cho nhu cầu kỹ thuật của một xã hội máy móc…
Tóm lại, Giáo Dục là thể động của Văn Hóa trong tiến trình hình thành hủy hoại và Văn Hóa là nội dung, là thực chất của Giáo Dục, giúp Giáo Dục hiểu được đối tượng, định được hướng tiến, tìm được phương pháp thi hành.
5.2. Chính Sách Chính Trị
Chưa có ai giải đáp được vấn nạn mà triết học đã nêu ra: Quả trứng có trước hay con gà có trước? Nhưng tất cả đều nhận thấy tính chất nhân quả có tính cách chu kỳ giữa cái trứng và con gà. Không có trứng tất không có gà, và ngược lại, không có gà (điều kiện ắt có và đủ là gà mái) thì cũng sẽ không có trứng. Chính Trị và Văn Hóa cũng liên hệ với nhau theo biện chứng có tính cách chu kỳ như trên. Do đó, không có Văn Hóa, không có Chính Trị. Lịch sử đã chứng minh các trào lưu văn hóa, bao gồm những thay đổi tình cảm, tư tưởng và tiến bộ khoa học kỹ thuật, đã đưa đến sự thay đổi chính trị. Thật vậy, nếu không có sự tiến bộ về kỹ thuật hàng hải, tinh thần mạo hiểm và giàu sang thì Âu Châu chắc cũng đã không trở thành những đế quốc thực dân với chính sách chính trị đi xâm lăng, chiếm thuộc địa, thì Anh, một quốc gia hải đảo, đã không thành đế quốc thực dân lớn nhất thế giới với niềm tự hào: Vầng thái dương không bao giờ ngừng chiếu trên lá cờ biểu hiệu của Hoàng Gia Anh quốc. Và văn hóa Anh chắc cũng không được phổ biến đến độ Anh Ngữ đã trở thành một ngôn ngữ thông dụng nhất thế giới được dùng chính thức trong các cuộc hội họp quốc tế.
Vì Văn Hóa là nền tảng định hướng và thiết kế chính sách chính trị nên đặc tính của Văn Hóa sẽ có dấu vết rõ rệt trên chính sách chính trị. Chẳng hạn như Ấn Độ, quê hương của thần linh, đã cống hiến cho thế giới những đường lối chính trị khá đặc biệt. Ganhdi với những đường lối bất bạo động, như Nehru với chủ trương trung lập. Cũng như ý niệm của Karl Marx cho rằng chỉ có tầng lớp công nhân mới xứng đáng lãnh đạo, nên dưới chế độ chuyên chính vô sản các giai cấp khác đã bị thủ tiêu một cách dã man tại các trại giam, nhà tù trong các công trường xây cất, các nông trường sản xuất. Bao nhiêu người đã chết vì ý niệm giai cấp đấu tranh của Karl Marx? Chưa có một thống kê nào nói rõ, nhưng chắc phải hàng trăm triệu và còn tiếp nữa. Chỉ riêng con số phỏng định hàng trăm triệu này cũng đủ chứng thực cho câu nói: Tư tưởng cai trị thế giới, và tư tưởng hướng dẫn hành động mà bản chất của chính trị là hành động.
 
6. SỰ TƯƠNG QUAN HAI CHIỀU CỦA
GIÁO DỤC VÀ CHÍNH TRỊ
Như đã trình bày, Giáo Dục và Chính Trị là phương tiện để bảo tồn và phát huy Văn Hóa. Nói khác đi, Giáo Dục, Chính Trị là Văn Hóa ở thể động trong tiến trình sống, còn, nối, tiếp, tiến, hóa, của nước nòi. Giáo Dục và Chính Trị tuy được phân chia lãnh vực hoạt động nhưng chúng có một mối liên hệ chặt chẽ không thể tách rời, giống như hai mặt của một đồng tiền giấy (a dollar bill). Thiếu một mặt, tiền sẽ trở thành vô giá trị hết xài.
6.1. Giáo Dục là Khởi Điểm và là Chung Điểm của Chính Trị
6.1.1. Là Khởi Điểm của Chính Trị
Giáo Dục là dạy, là học cho khôn ngoan, tức là Tri, biết, còn Chính Trị thì chủ yếu là hành động tức là Hành. Biết phải đi trước làm, Tri phải đi trước Hành. Không trồng cây sao mong hái quả? Vì thế Giáo Dục đi trước làm công việc trồng người để chuẩn bị cho giai đoạn chính trị dùng người. Nuôi quân ba năm dùng trong một ngày là vậy!
6.1.2. Là Chung Điểm của Chính Trị
Giáo Dục phải đưa đến cái biết tròn đầy viên mãn tức Chu Tri. Học, biết phải có mục đích rõ ràng để làm nên việc, làm nên công. Người xưa vẫn ghét bọn hủ nho thanh đàm, tri hành không hợp nhất, không khác gì thời nay dùng danh từ chính khách Salông để chỉ đến những người thích bàn đến chuyện quốc gia đại sự mà lại ghét việc, ngại nắng, e mưa. Vì cầu cái biết để làm nên chuyện, nên giáo dục phải có tính triệt để, toàn diện và hướng thượng. Làm sai, làm hư chuyện, làm hỏng việc tức là không biết, là chưa biết đủ, triệu chứng của dốt và bệnh hay chữ lỏng, cần phải chữa trị gấp.
6.2. Chính Trị là Khởi Điểm và Chung Điểm của Giáo Dục
6.2.1. Là Khởi Điểm của Giáo Dục
Chính Trị đi trước tạo những điều kiện thuận lợi cho Giáo Dục phát triển. Thực tế xã hội đã chứng minh như một chân lý ngàn đời là: Cái khó nó bó cái khôn. Sự nghèo đói đi liền với sự ngu dốt. Sự nghèo đói là mẹ đẻ của các nết hư tật xấu gây ra những tệ đoan xã hội — la pauvreté est la mère des vices — như người xưa đã nói: Bần cùng sinh đạo tặc. Còn sự ngu dốt, vô minh là căn nguyên của mọi khổ đau, trầm luân nơi nhân loại. Nhận xét đúng nhân tính có thực mới vực được đạo, có ăn no đủ mới giữ được đạo lý, theo được đường lối lý tưởng, đã đưa đến chính trị sáng suốt: Phú chi, giáo chi, tức là làm cho dân no ấm như một điều kiện tiên quyết để sau đó mới dạy dỗ, uốn nắn họ đi theo đường hướng của lý tưởng.
6.2.2. Là Chung Điểm của Giáo Dục
Chính Trị có mục đích làm cho dân giàu nước mạnh, hùng cường đi lên một lý tưởng cao đẹp: Sống hòa bình, hạnh phúc, thịnh vượng trong cộng đồng nhân loại. Lý tưởng cao đẹp này chính là Chủ Điểm trong việc giảng dạy của Giáo Dục. Cũng vì quan niệm Giáo Dục như một phương thế tất yếu để lột xác trong tiến trình thăng hoa của nước nòi, nên Giáo Dục đã được xây dựng trên những nguyên tắc: đáp ứng được nhiệm vụ thời đại, nối tiếp đươcỉ dòng sinh mệnh lịch sử của nước nòi và hướng tới một lý tưởng cao đẹp là hoàn thành Nhân Tính một cách trọn vẹn trong tinh thần tự chủ — Nhân Chủ — mà tổ tiên ta đã di chúc lại bằng biểu tượng Rồng Tiên. Hoàn thành sứ mạng được giao phó này, Giáo Dục đã đi đến chung điểm của nó. Ở chung điểm, lý tưởng Giáo Dục và lý tưởng Chính Trị chỉ còn là một lý tưởng chung có tính cách phổ quát, như những vòng tròn đồng tâm chỉ có chung một tâm (center) duy nhất.
7. BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỊCH SỬ
7.1. Sách Lược Chính Trị của Thực Dân Pháp
a) Thủ Đoạn Ngu Dân: Hạn Chế Giáo Dục
Dưới thời Pháp thuộc, việc học của người Việt bị hạn chế. Dù rằng chữ Quốc ngữ rất dễ học so với chữ Nho, chữ Nôm, nhưng tình trạng mù chữ dốt nát đã lên đến mức độ gần như toàn diện. Người Pháp trong dã tâm bóc lột chỉ cốt đào tạo một số cán bộ tay sai cỡ trung cấp trong dịch vụ thông ngôn — ông thông, thầy phán — các cơ sở giáo dục cũng rất ít, chỉ có các tỉnh lớn mới có trường dạy cho hết bậc tiểu học, hoặc cao là cấp một trung học. Muốn học lên cao phải ra Hà Nội, do đó chỉ có một thiểu số có đủ phương tiện đài thọ việc học hành. Đã vậy họ còn giải tán và đàn áp các phong trào dạy dân chúng học như Đông Kinh Nghĩa Thục trong mục đích kiềm hãm dân trí, làm ngu dân cho dễ cai trị. Khi thấy khó thể ngăn cản lòng khao khát hiếu học của tầng lớp xã hội có ý thức, thực dân Pháp bèn tạo phương tiện cho các tay sai, trí thức Việt gian đứng ra hướng dẫn đưa cao trào vào một hướng khác.
b) Nghiên cứu văn học sử Việt Nam vào thập niên hai mươi, tất phải chú ý đến một cuộc bút chiến sôi nổi được mệnh danh là Vụ Án Truyện Kiều. Cuộc bút chiến xảy ra giữa những tay cự phách trong văn giới: học giả Phạm Quỳnh, người chủ trương tờ Nam Phong và hai nhà cách mạng lão thành: Ngô Đức Kế và Huỳnh Thúc Kháng.
Được sự hỗ trợ của tên trùm mật thám Tây Louis Marty và tên Tổng Đốc Hoàng Trọng Phu, con của Phó Vương Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải — người được nhân sĩ xứ Bắc tặng cho hai câu: Con cháu một nhà hai tổng đốc, Pháp Nam hai nước một công thần — Phạm Quỳnh đã ra tờ Nam Phong với chủ trương nâng cao dân trí. Trong đó có việc đề cao Quốc Văn. Tác phẩm Kiều của Nguyễn Du được Phạm Quỳnh và phe nhóm hết sức đề cao coi như quốc hồn, quốc túy mà toàn dân phải noi theo, phải giữ gìn. Phong trào ca tụng Kiều kéo dài tới mấy năm trời, lôi cuốn được sự ủng hộ của đám thanh niên trí thức chịu ảnh hưởng lãng mạn Tây phương với cá nhân chủ nghĩa. Thời kỳ này đã có những tác phẩm ủy mị như: Tuyết Hồng Lệ Sử (sách dịch), Vân Lan Nhật Ký (sách dịch), Tố Tâm (truyện), Giọt Lệ Thu (thơ) làm cho tầng lớp thanh niên trí thức đáng lẽ phải là những mũi nhọn chủ lực trong việc gieo rắc tư tưởng Duy Tân thì lại trở nên lãng mạn vớ vẩn để cho tâm hồn trụy lạc trong những tình cảm yếu hèn chôn hoa khóc bướm. Để hỗ trợ cho những thành quả tinh thần mà bọn trí thức Việt gian đã tạo ra được, thực dân Pháp còn bán môn bài cho mở các tiệm bán rượu, các nhà hút thuốc phiện, các khu đĩ điếm, các tiệm khiêu vũ… Thời đó thực dân đã tạo được một mẫu người lý tưởng là đầu bù tóc rối, đôi mắt thất thần, nói năng lừng khừng, môi thâm, vai so cổ rụt vì hút thuốc phiện, vì uống rượu Tây và đi đứng run rẩy như ông già vì quá trác táng, truy hoan.
Nhìn được dã tâm của thực dân và sự trâng tráo của bọn phản bội dân tộc, hai nhà cách mạng lão thành Huỳnh Thúc Kháng và Ngô Đức Kế đã lên tiếng công kích Phạm Quỳnh và cảnh tỉnh thanh niên. Nhiệt tình của các cụ cũng chỉ như tiếng kêu trong sa mạc và tắt ngấm không được người phụ họa vì thủ đoạn đe dọa của thực dân.
c) Thủ Đoạn Khủng Bố: Đe Dọa Tác Giả
Có lẽ không ai hiểu rõ cái sức mạnh của tư tưởng bằng bọn thực dân và bọn Cộng Sản. Bọn họ là những chuyên viên am hiểu kỹ thuật đàn áp con người và đàn áp tư tưởng một cách triệt để, thấu đáo nhất. Tư tưởng phản kháng, tình tự yêu nước nòi là những nụ máu để chờ thời cơ bùng nổ ra hoa máu cách mạng. Biết vậy nên chúng đàn áp ngay từ khi tư tưởng mới manh nha, mong manh như trứng nước. Tuy có chế độ kiểm duyệt báo chí, nhưng đôi khi vì sơ sót, chểng mảng nên cũng có những bài lọt qua được màng lưới kiểm duyệt đến tay người đọc. Nhưng lập tức thủ đoạn khủng bố đe dọa tác giả sẽ được dùng như một biện pháp sửa sai. Biện pháp này đã được chính Louis Marty, trùm mật thám Tây áp dụng cho tác giả một bài thơ đăng trên tạp chí Nam Phong. Điển hình như tác giả Thanh Giang đã bị bắt giữ, tra hỏi và rồi được thả sau đó ít lâu. Bài thơ thất ngôn bát cú đó như sau:
Thư thả ra chơi ngắm cụm hồng
Bụi hồng xơ xác chả buồn trông
Cành thưa lá úa coi trào lệ
Nhị héo hao khô luống trạnh lòng
Trời nắng làm chi nên nỗi thế
Người trồng thôi cũng mất công không
Em đâu đưa nước cho anh tưới
Anh tưới cho tan khí nực nồng
Bài thơ dưới mắt người thường thì chẳng có gì là cách mạng, nhưng Louis Marty với cặp mắt cú vọ của tay mật thám nhà nghề đã đọc được giữa hai hàng chữ một cái gì khác thường: Tâm trạng ai hoài của người dân mất nước muốn làm một cuộc đổi đời. Không rõ Phạm Quỳnh có bị khiển trách gì không khi bài thơ tuyên truyền này bị phát giác, nhưng điều này chứng tỏ Phạm Quỳnh chỉ là học giả có tài văn chương, ông đã thiếu một nhãn quan chính trị sắc bén dù rằng ông cũng đã xuất chinh làm đến Thượng Thư và rất mực tự phụ với cái tên chữ Thượng Chi mang nhiều ý nghĩa.
7.2. Sách Lược Chính Trị của Cộng Sản Việt Nam
Trong tham vọng nhuộm đỏ toàn thế giới, Đế quốc Nga – Hoa đã dùng Việt Cộng như một công cụ để xâm chiếm miền Nam. Đối với Cộng Sản, Chiến Tranh chỉ thực sự chấm dứt khi toàn thế giới được đặt dưới chế độ chuyên chính vô sản. Vì vậy điều mà thế giới Tự Do đón chờ như Hòa Bình chỉ là một giai đoạn xen kẽ, chuẩn bị để Chiến Tranh của người Cộng Sản.
7.2.1. Ý Niệm Chiến Tranh Toàn Diện
Ý niệm chiến tranh toàn diện bắt nguồn từ cuộc cách mạng Pháp 1789, được chiến lược gia lừng danh thế giới Clausewitz khai triển và hệ thống hóa rồi được Cộng Sản triệt để áp dụng dưới danh hiệu mỹ miều: Chiến tranh nhân dân cho phù hợp với luận điệu tuyên truyền xảo quyệt của chúng. Gọi là chiến tranh nhân dân vì tất cả mọi người dân bất kể già, trẻ, trai, gái lớn bé đều được vận dụng để tham dự vào cuộc chiến, nghĩa là tuyệt đối không một ai được đứng ngoài, thụ động chứ đừng nói đến chống đối, biểu tình đả đảo. Khẩu hiệu lừng khừng là phản động là một lời đe dọa thật hữu hiệu để mọi người hiểu tiếp: Loạng quạng là đi đoong! Nhờ vậy mà hậu phương, nội bộ của Cộng Sản tuyệt đối ổn định, vững chắc không bị địch phá hoại, lũng đoạn như phe Quốc Gia Tự Do.
Chiến tranh nhân dân còn là chiến tranh bất quy tắc (irregular). Nó không tôn trọng một quy luật nào đã được thế giới công nhận như những quy chế về tù, hàng binh, về đình chiến, về sinh mạng dân chúng ở các khu dân cư, các cơ sở xã hội, nhà thương, trường học, chùa, nhà thờ. Đây là cuộc chiến tranh không giới tuyến, không hạn chế, ở đâu cũng là mặt trận, tất cả những gì liên quan tới địch, đều là đối tượng để phá hoại và không hạn định thời gian. Những ý niệm toàn diện, tuyệt đối này đã làm cho cả thế giới bàng hoàng kinh sợ, nhưng cũng đã giúp cho đế quốc Cộng Sản thống trị được hơn một phần ba nhân loại. Cộng Sản thành công dễ dàng vì đa số đối thủ của họ mắc phải khuyết điểm:
Vì ấu trĩ, thờ ơ, ngu tối
Vì muốn an thân, vì tiếc máu xương ...
... Lỗi lầm tại ai? Xét ra tất cả
Mấy ai người đem hết tâm can?
Trước quân thù hung hiểm gian ngoan
Biết bao kẻ mơ hồ trong hưởng lạc !
(Tập thơ Vô Đề và Khuyết Danh)
Người dân lành của miền Nam cũng bàng hoàng tỉnh mộng khi được học tập để thông suốt đường lối chính phủ: Mọi người dân sống dưới chế độ Ngụy đều có tội, vì kể cả một con bướm nhởn nhơ ở miền Nam cũng có tội với cách mạng! Đó không phải là lời nói chơi trong câu chuyện tầm ruồng. Đó là lời buộc tội nghiêm khắc của các viên chức Cộng Sản. Với tội trạng đó dân miền Nam đã bị kết án treo để lần lượt đi cải tạo trong các nhà tù, các trại lao động sản xuất, các vùng kinh tế mới… Sự ăn năn, hối hận đến quá chậm khi họ ý thức được điều mà Cộng Sản đã hiểu, đã triệt để áp dụng trước họ khá lâu: Chiến Tranh là tiếp nối của đấu tranh Chính Trị. Chiến Tranh chỉ có mục đích tối thượng là chiến thắng bằng cách tiêu diệt địch, và mọi phương tiện để đạt cứu cánh đều tốt.
7.2.2. Những hình thức phá hoại của bọn nằm vùng trên trận tuyến Văn Hóa
Cuộc chiến tranh Nam Bắc (1954-1975) là một cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa Cộng Sản và Quốc Gia. Cuộc chiến tranh nầy có tầm vóc quốc tế, được sự hỗ trợ rộng rãi của hai khối Cộng Sản và Tự Do. Nhưng vì những nhược điểm của phía Quốc Gia như nội bộ thiếu đoàn kết, tập đoàn lãnh đạo thiếu khả năng, đường lối chính lược thiếu tính chất triệt để, toàn diện, hướng thượng. Nhược điểm của khối Tự Do như không quyết tâm, chia rẽ, khích bác nhau về quyền lợi (Anh, Pháp, Mỹ). Nhược điểm của dân chúng miền Nam và thế giới như thờ ơ, thụ động, cầu an, hèn nhát đã làm cho Cộng Sản có những cơ hội đạt đến chiến thắng 30/4/1975. Việc mất nước không phải bỗng nhiên xảy ra trong đầu hôm sớm mai. Nó đi theo một diễn tiến tất yếu có tính cách quy luật với một khởi điểm nhỏ bé nhưng thật cần thiết để làm nhân, rồi sẽ loang rộng ra như vết dầu. Lỗ nhỏ làm đắm thuyền! và lỗ mối đào làm sụp cả con đê. Trong trăm ngàn những nguyên cớ gây ra việc mất nước phải kể đến những kẻ Nội Thù, bọn phá hoại nằm vùng trên trận tuyến văn hóa.
7.2.2.1. Lãnh vực Giáo Dục
Như đã trình bày đường lối chính lược, chiến lược của miền Nam thiếu tính cách triệt để, toàn diện và hướng thượng nên Cộng Sản đã có thể cài người vào phá hoại. Chúng áp dụng thủ đoạn Trường Kỳ Mai Phục, cho người vào nằm trong các tổ chức, cơ sở, đoàn thể xã hội, tôn giáo, chính trị... và cả hệ thống chính quyền của miền Nam rồi đợi thời cơ thuận tiện vùng lên phá hoại. Trong lãnh vực giáo dục, người ta có thể bắt gặp khá nhiều những giáo sư có lập trường chính trị rất lựa khựa, ỡm ờ thiên tả nếu không muốn võ đoán gọi là Cộng Sản. Trong nhiệm vụ giảng huấn, các giáo sư nầy đã nhuộm đỏ tâm hồn các học sinh, sinh viên. Chẳng hạn, đã có những giáo sư Việt Văn dùng ý niệm giai cấp đấu tranh để phê bình Kiều, để nhận xét về bối cảnh thời đại của tác giả và tác phẩm. Có những giáo sư Sử-Địa đã đề cao giai cấp vô sản bần cùng bằng cách bóp méo lịch sử. Họ giảng dạy cho các học sinh là các vị anh hùng dân tộc Lê Lợi, Nguyễn Huệ xuất thân từ tầng lớp dân chúng nghèo đói, giai cấp chịu nhiều áp bức. Họ quên rằng, Lê Lợi là hào phú địa chủ. Nguyễn Nhạc làm Biện Lại ở thành Qui Nhơn. Những giai cấp nầy theo quan niệm của Đảng, đều là đối tượng để đấu tố hay cho đi cải tạo sản xuất. Ngoài lúc giảng dạy lại còn những câu chuyện bên lề có tính cách thời sự nhất nhất đã bị họ lái đi theo một đường hướng có hại cho chính nghĩa chống Cộng của miền Nam theo kiểu tuyên truyền xám. Qua các cuộc biểu tình bãi khóa của các sinh viên học sinh chống chính quyền miền Nam, không ai có thể chối bỏ được sự xách động của Cộng Sản. Nhưng trong sự xách động sinh viên học sinh đó, những giáo sư có lập trường lựa khựa, ỡm ờ thiên tả này, đã tiếp tay với Cộng Sản đến mức độ nào thì vẫn còn rất ít người biết đến!
7.2.2.2. Lãnh vực Báo Chí
Cũng như trong lãnh vực Giáo Dục, báo chí cũng bị bọn Cộng Sản nằm vùng lũng đoạn. Trên báo chí, chiến dịch bôi nhọ để hạ uy tín những nhân vật quốc gia đi lẫn với những cách dùng danh từ đầy ác ý. Đôi khi có cả những người cầm bút có tinh thần quốc gia, nhưng vì không thận trọng, ham vui cũng đã đi vào sách lược của chúng trong những bài viết có lợi cho Việt Cộng. Chẳng hạn như trong những năm cuối của thập niên 60, người ta đọc thấy trên báo chí Sài Gòn những bài chống Mỹ một cách quá khích với những danh từ: Quan Thái Thú để chỉ Đại Sứ Mỹ, lính đánh thuê để chỉ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, và sự xuất hiện những tờ báo đối lập tự nhận là thành phần thứ ba chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc! Họ dùng ngay khẩu hiệu Cộng Sản: Chống Mỹ cứu nước cho phong trào bài Mỹ, yêu cầu Mỹ rút khỏi Việt Nam. Đọc những bài báo trên, những người sáng suốt đã giật mình lo sợ vì hiểm họa mất nước vào tay Cộng Sản đã gần kề. Những người cầm súng trực tiếp chống Cộng cũng bị giao động tinh thần. Đó là một trong những lý do làm cho con số đào ngũ lên cao.
7.2.2.3. Lãnh vực Văn Nghệ
Phải nói ngay rằng, những bản nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn đã có những tác động nguy hại trên tâm lý thanh niên miền Nam. Không ai có thể phủ nhận tài năng của Trịnh Công Sơn qua những bài nhạc như thơ, lãng mạn một cách mơ hồ, ray rứt. Người Quốc Gia chỉ biết yêu quí tài năng của Trịnh Công Sơn, nhưng chính Cộng Sản mới biết xử dụng Trịnh Công Sơn. Bằng chứng sau 30/4/1975, đa số nhạc Trịnh Công Sơn bị cấm lưu hành vì tính cách độc hại của nó. Đó là một thái độ khôn ngoan của Cộng Sản. Thuốc độc thì chỉ tốt cho địch thù chứ không tốt cho ta! Cũng sau ngày đau nhục 30/4/1975, nếu ai còn kẹt lại Sài Gòn sẽ đọc được trên tờ Sài Gòn Giải Phóng, Tin Sáng... nhiều bài khoe công với cách mạng, lấy le với đồng bào của bọn nằm vùng này. Đọc rồi mới thấy bọn chúng được huấn luyện cẩn thận, đấu tranh có kỹ luật và kỹ thuật cao, đã không bỏ lỡ bất cứ một cơ hội nào, bỏ sót một chi tiết nào để đánh địch, phá hoại địch, chưởi địch. Lý Chánh Trung, giáo sư đại học Sài Gòn, đã tỷ mỉ kể lại những lần trốn vào bưng học tập ra sao và khoe những thành tích chống Mỹ Ngụy ngay trước mắt chúng mà chúng vì ngu nên không biết lại còn xin được dịch đăng trên báo Mỹ với cái tên tác giả lớn chình ình: Nguyễn Ý Mỗ. Theo lời giải thích của Lý Chánh Trung trên bài báo, thì Ý Mỗ đọc ngược lại là Ố Mỹ, chữ nho ố là ghét, ghét Mỹ. Kể ra đó là một sự tự phụ quá đáng. Không phải Quốc Gia không có những người nhìn ra được cái đuôi của Lý Chánh Trung, nhưng những người nhìn thấy lại là những ngươi không có quyền hành. Cụ thể là Vũ Hạnh đã bị vạch mặt nằm vùng nhưng rồi cũng bình an vô sự. Sau khi miền Nam mất, Lý Chánh Trung được chức Phó Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước và Vũ Hạnh được chức Tổng Thư Ký hội Nhà Văn Nhà Báo Sài Gòn Giải Phóng.
7.2.2.4. Kinh nghiệm cải tạo
Sau ngày 30/4/1975, tất cả những người có liên hệ tới "Ngụy Quân Ngụy Quyền" kể cả các đảng phái đối lập, thân hào nhân sĩ, tu sĩ không phải là người của Cộng Sản đều bị tập trung trong các nhà tù, trại giam trá hình: Trung Tâm Cải Tạo Lao Động Sản Xuất để học tập. Các học viên ngoài phần lao động sản xuất cưỡng bách còn phải thường xuyên sinh hoạt học tập đường lối chính sách Đảng, kiểm thảo phê bình tác phong và tư tưởng lẫn nhau, báo cáo lên cán bộ quản giáo của đội, của trại để kịp thời giúp đỡ mau tiến bộ... Tiếp xúc với Cộng Sản, những người may mắn có kinh nghiệm cải tạo đều ý thức được rằng: ta hơn địch rất nhiều về phương diện cá nhân, nhưng thua địch về phương diện tập thể. Cộng Sản dốt đàn còn ta khôn lỏi. Nhưng chính nhờ cái dốt đàn đó, mà Cộng Sản đã tạo được sự thống nhất ý chí, thống nhất đường lối, thống nhất lực lượng trong một hệ thống lãnh đạo suốt từ trên xuống dưới, tỏa ra khắp nơi, để thực hiện cuộc chiến tranh toàn diện, triệt để, không hạn định thời gian, nơi chốn và đã thắng ta.
Cộng Sản quan trọng hóa từ những điểm nhỏ nhặt nhất, kinh nghiệm cải tạo sau đây có thể dùng để chứng minh điều này. Trong việc học tập cải tạo tư tưởng, có phần phải thực hiện báo tường, báo liếp, mọi học viên đều tham gia viết bài ca tụng xã hội chủ nghĩa, hay vạch ra cái xấu của Ngụy Quân Ngụy Quyền, đế quốc thực dân Mỹ, Pháp... Một học viên đã gò được một bài thơ ngắn ca tụng công ơn “bác và đảng” có đề tựa: Tim Lòng Dâng Đảng. Một họa sĩ lãnh công tác trình bày báo vì muốn phụng sự nghệ thuật nên đã vẽ theo kiểu hippy, dấu chấm (.) nằm trên chữ i được kéo lên thẳng đứng. Sau vài tiếng đồng hồ, báo được dán lên liếp để mọi người xem, thì Vệ Binh cầm AK đổ xô đến vây trại. Tất cả học viên cải tạo bị lùa ra sân nắng nghe chỉ thị của giám thị trại vì lý do: quản giáo đã kịp thời phát hiện được âm mưu khích động trốn trại và xuyên tạc đường lối khoan hồng của “bác và đảng” một cách vô ơn. Âm mưu này được kết tội là: tinh vi, ngụy trang khéo léo bởi những tên có trình độ nhưng không qua được con mắt sáng suốt của nhân dân. Vải thưa không che được mắt thánh. Tim Lòng Dâng Đảng được hiểu là: Tím lòng Dâng Đảng, liên hệ tới câu văn biền ngẫu: Hận thù đến bầm gan tím ruột. Kết quả là bài thơ và họa sĩ trình bày bị phạt nhốt thùng sắt, phơi nắng và nhịn cơm mấy buổi để suy nghĩ viết tự kiểm về tội viết lách.
Quả là một chuyện khôi hài, nhưng dưới con mắt của chuyên viên phân tích, thì đó chính là biểu lộ tích cực của chính sách khủng bố ngăn ngừa (preventive terrorism) được Cộng Sản ưa dùng mà thế giới đã phải rùng mình khi được biết tới dưới khẩu hiệu: Thà giết lầm còn hơn bỏ sót.
Trong những yêu cầu đầu tiên mà cải tạo viên phải tuân theo, là phải biểu lộ qua ngôn từ, thái độ, sự lễ phép đối với các cán bộ quản giáo, vệ binh, sự cung kính đối với các lãnh tụ đảng. Khi được hỏi tới mới được trả lời, không được tự tiện nêu câu hỏi thắc mắc. Mở đầu câu phải có chữ: báo cáo anh... xin cho tôi được... Đối với các nhân vật ở miền Nam và thế giới tự do thì không được gọi là ông là cụ, mà phải gọi là tên là thằng: tên Tổng Thống Nixon, tên Ngô Đình Diệm, thằng Thiệu, thằng Kỳ...v.v... Người Cộng Sản phân biệt rõ rệt và dứt khoát lời nói biểu lộ lập trường, tư tưởng chính trị, mà tư tưởng hướng dẫn hành động qua thái độ yêu, ghét. Trong chiến tranh thì chỉ có hai phe: ta và địch, không có những kẻ đứng giữa, trung lập, hàng hai. Vì vậy có khẩu hiệu: lừng khừng là phản động. Thụ động, thờ ơ, không lựa chọn cũng là lựa chọn, chọn lựa chống lại nhân dân, chống lại cách mạng, chống lại đảng! Người ta có thể chê Cộng Sản là quá khích, nhưng phải chấp nhận người Cộng Sản có nhận xét khoa học, đi sát với diễn trình tâm lý. Thật vậy, có khinh rẻ coi thường, mới có chán ghét, có chán ghét mới đi đến chỗ chống đối, loại bỏ một cách lạnh lùng không một chút mảy may xúc động, như một người máy làm theo phản xạ được hướng dẫn trước.
Những ai đã từng đọc tiểu thuyết Kim Dung, tất không quên được nhân vật Mộ Dung Bác và Mộ Dung Phục trong Lục Mạch Thần Kiếm, sở trường ngón nghề gậy ông đập lưng ông. Binh Thư có nói tới chiến pháp: Dĩ địch diệt địch, còn các cụ nói nôm na là: Giáo Tầu đâm Chệt. Việt Cộng vì sợ mất lòng người anh em Trung Quốc vĩ đại, nên đổi lại thành khẩu hiệu: Súng giặc lòng ta, trong chiến dịch Xanh Vỏ Đỏ Lòng của các tổ chức binh vận lũng đoạn hàng ngũ binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa.
Trong các buổi sinh hoạt học tập, các cải tạo viên phải hát những bài ca cộng đồng của Cộng Sản. Vì mặc cảm, nên anh em đều né tránh các bài chửi bới Ngụy Quân, Ngụy Quyền và Đế Quốc Mỹ mà chỉ chọn hát những bài vô thưởng vô phạt, có tính cách yêu nước chung chung. Tuy nhiên có một bài anh em thích hát, hát thường xuyên, hát lớn, hát vang với một sự hứng khởi không thể ngờ được! Đó là bài Tiến Về Sài Gòn. Bài đó nói về cảnh đói khổ của thành phố, lòng dân sôi sục hờn căm, đợi chờ để vùng lên giải phóng giành tự do. Bài đó có những câu như sau: Tiến về Sài Gòn ta giết sạch giặc thù, tiến về Sài Gòn giải phóng Thành Đô! Sau một thời gian quan sát, nhận xét, các cán bộ ra lệnh không cho cải tạo viên hát bài trên với lý do: Các anh là Ngụy đi cải tạo, chưa có quyền công dân, không xứng đáng hát bài này. Sau đó ít lâu, toàn trại được lên lớp nghe ủy viên chính trị trại nói về đường lối khoan hồng, nhưng cực kỳ cứng rắn của đảng và nhà nước đối với những thành phần ngoan cố còn tỏ lộ tư tưởng chống phá ngầm cách mạng và kết thúc bằng câu: Hết rồi! đừng có ảo tưởng lấy gậy chông trời. Đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa chứ không phải bọn tay mơ Thiệu Kỳ mà các anh hòng qua mặt.
Quả thật khi so sánh, người Cộng Sản đúng là một tay nhà nghề thạo việc, một chuyên viên được huấn luyện kỹ và đầy kinh nghiệm ứng biến để đấu tranh trên nhiều lãnh vực của cuộc chiến toàn diện. Còn chúng ta, những người quốc gia, với một tâm hồn phóng khoáng đa cảm, một thái độ triết nhân: giết người ta ở với ai?, một tác phong thật nghệ sĩ coi đời như một kiếp rong chơi... đã bị chơi vơi lạc lõng không thích nghi được với cuộc chiến tranh toàn diện và triệt để này! Bằng chứng là mẫu người lý tưởng: lính hào hoa, lính đa tình, đã được báo chí đề cao văn thơ nhạc ca tụng ầm ĩ. Người ta đã quan niệm sai về bản chất của chiến tranh. Chiến tranh là bạo lực, là giết chóc, phá hoại. Và người lính như người đảm nhận thi hành chiến tranh để đưa đến chiến thắng tối hậu cho tổ quốc cho dân tộc, cần đến những đức tính như sự dũng cảm, tinh thần kỹ luật, tình đồng đội và đầy đủ cơ mưu binh lược, chiến thuật... còn đa tình, hào hoa chỉ là một phẩm tính tùy thuộc, không phải đặc tính cốt tủy cần thiết để làm nên một người lính giỏi. Trong khi đó, Cộng Sản đưa ra những người lính cán bộ: lập trường vững, chính trị cao, lý luận giỏi, giết được nhiều Mỹ ngụy lập chiến công dâng bác và đảng... điển hình như nhân vật Pavel trong tác phẩm Thép Đã Tôi Như Thế Đấy, cuốn sách gối đầu giường của người thanh niên Cộng Sản.
So sánh, suy nghĩ tất sẽ xót xa thấy được tại sao chính nghĩa Quốc Gia đã không thắng được gian tà Cộng Sản. Chê Cộng Sản gian manh, tàn ác, nhưng cũng đừng quên trách chúng ta ấu trĩ, thờ ơ và ngu tối. Thục An Dương Vương đã bị mất nước, phải lưu vong và đã tỉnh ngộ khi được thần Kim Quy nhắc nhở, giặc ngồi sau lưng nhà vua đó! Còn chúng ta, cũng đã bị mất nước, phải lưu vong, đã kịp tỉnh ngộ để sáng suốt nhận cho rõ chân tướng của những kẻ nội thù dấu mặt hay chưa? Dù rằng đến bây giờ mới làm việc này là quá chậm. Nhưng chậm còn hơn không!

8. KẾT LUẬN
Qua những điều trình bày trên, Văn Hóa, Giáo Dục và Chính Trị chỉ là những biểu lộ cục bộ của một thực thể linh động. Sự thống nhất của Văn Hóa, Giáo Dục và Chính Trị làm nên một toàn thể bất khả phân ly. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều này qua suốt mấy ngàn năm Sống, Còn, Tiếp, Nối, Tiến, Hóa. Cũng chỉ vì tách rời Chính Trị và Giáo Dục mà có chế độ phong kiến. Dưới chế độ phong kiến và quan liêu, quyền hành chính trị nằm trong tay một thiểu số, do đó dễ đưa đến tình trạng bóc lột, đè nén dân chúng. Chế độ Dân Chủ đã sửa đổi lại sai lầm đó bằng cách kết hợp Giáo Dục và Chính Trị trong một thể thống nhất. Nhờ giáo dục người dân ý thức được trách nhiệm, bổn phận và quyền lợi của mình của nước nòi. Bằng chính trị, người dân tham gia trực tiếp vào sự nắm giữ tương lai cá nhân và sinh mệnh dân tộc. Thảm cảnh đói rách, tội tù bất công, bóc lột... đã xảy ra trong xã hội vì hai lý do: một là không biết, không được dạy dỗ học hành. Hai là không làm, không dám làm vì sợ hay không muốn làm vì thiệt. Để giải quyết những tệ trạng xã hội đó, tất nhiên phải có đủ cả Tri — Giáo Dục và Hành — Chính Trị trong một sự hợp nhất. Thực tế chỉ có những nhất thể, linh động bất khả phân ly trong một liên hệ cơ cấu đa diện, mà mọi sự phân chia, tách rời đều mang ý nghĩa thay đổi bằng cách hủy diệt, giết chết. Ý niệm triết học toàn thể (a whole) đưa đến ý niệm chiến tranh toàn diện (total war). Mục đích của chiến tranh là tiêu diệt hủy hoại địch. Tiêu diệt địch bằng phương pháp nào cũng đều tốt cả. Đánh tan từng đơn vị võ trang của địch bằng quân sự, lũng đoạn tiềm năng địch bằng kinh tế, phá hoại tinh thần địch bằng văn hóa đồi trụy, văn nghệ phản chiến, tạo mâu thuẫn nội bộ địch, chia rẽ hàng ngũ địch bằng tuyên truyền giáo dục của ta... đều là những mũi nhọn để công hãm địch. Dồn thù vào thế chờ bị tiêu diệt. Cộng Sản đã áp dụng triệt để ý niệm chiến tranh toàn diện và đã thành công khi chiếm được miền Nam.
Nhưng cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc! Chúng ta, những người bị gọi là chiến bại vẫn còn cơ hội để giành lại giang sơn. Thua một trận chiến (a battle) không có nghĩa là thua một cuộc chiến (a war). Điều kiện tiên quyết để thắng kẻ thù Cộng Sản là chúng ta phải có quyết tâm để học hỏi, để thực hành. Quyết tâm sống và bảo vệ những điều mình yêu, tin và lý tưởng. Phải thắng mình trước khi thắng kẻ thù. Phương thức để chiến thắng Cộng Sản được vạch rõ:
Để thắng kẻ thù tôi không được hèn, ngu
Để sống kẻ thù tôi phải sống ngàn thu
(Thơ Vô Đề và Khuyết Danh)
Không được ngu, tất là phải có một sự hiểu biết tròn đầy viên mãn Chu Tri về mọi mặt, tức là có một hệ thống tư tưởng làm căn bản cho việc nhận định, tức là có một ý thức hệ, một chủ thuyết giải quyết được vấn đề một cách triệt để, toàn diện và hướng thượng.
Không được hèn, tất là phải có một sự can đảm hơn người, đại đởm, không ngại khó, không ngại khổ, quyết tâm và dám chết để tìm đường sống. Nhưng không phải liều lĩnh vọng động quờ quạng mà làm, trái lại can đảm mà thi hành theo sách lược bởi sự biết Chu Tri.
Phải sống thiên thu, vì chiến thắng thực sự chỉ có khi nhân loại tiêu diệt được chủ thuyết Cộng Sản một cách triệt để và toàn diện bằng một chủ thuyết khác, cao đẹp hơn, phù hợp với Nhân Bản, phát huy được Nhân Tính để đạt tới mức Nhân Chủ như một lý tưởng phải vươn tới của loài người.
Muốn thắng kẻ thù Cộng Sản, chúng ta phải thực hiện một cuộc chiến tranh toàn diện, triệt để được hướng dẫn bởi một lý tưởng cao đẹp. Thực hiện ra sao, và lý tưởng cao đẹp hướng dẫn là gì? Đó là những vấn đề mà chúng ta sẽ trình bày trong những số báo kế tiếp.
 
PHẦN 2

3. Kinh nghiệm lịch sử
Thời lai đồ điếu thành công dị
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa
(Đặng Dung)
Cuộc chiến Việt Pháp bắt đầu ngày 19/12/1946 và kết thúc ngày 20/7/1954 bằng hội nghị Genève chia đôi đất nước ngang vĩ tuyến 17. Dưới cái nhìn bao quát toàn thể, trong bối cảnh của một thế giới đang phân cực và tranh giành ảnh hưởng, cuộc chiến Việt Pháp đã trở nên phức tạp với những âm mưu can thiệp của các thế lực quốc tế luôn luôn khuynh loát lẫn nhau. Lý tưởng giành độc lập, tự do cho tổ quốc, xây đắp một tương lai no ấm trong hòa bình cho dân tộc là một mục đích tối thượng đối với những người Quốc Gia, thì trái lại với người Cộng Sản, đó chỉ là một chiêu bài có tính giai đoạn. Mục đích của họ vươn ra ngoài biên cương quốc gia và dẫm lên quyền lợi dân tộc để phục vụ cho chủ thuyết Mác Xít Lê Nin Nít tạo lập một siêu đế quốc thống trị toàn thế giới. Sự khác biệt sâu sắc về lập trường chính trị đã tất yếu đưa đến sự xung đột Quốc Cộng và sau 1954 là sự hình thành của hai nước Việt Nam.
Tuy nhiên trong phạm vi hạn hẹp của bài viết, giai đoạn lịch sử 1945-1954 được nhìn lại chỉ để tìm hiểu xem người Cộng Sản trong vai trò lãnh đạo đã khôn khéo dùng chiến tranh như một phương cách để loại bỏ những người Quốc Gia ra sao? Họ đã đạt được những mục đích gì? Người Pháp tại sao lại thua trận? Họ đã phạm vào những sai lầm căn bản nào trên phương diện chính trị cũng như trong lãnh vực quân sự?
3.1. Chiến tranh và người Cộng Sản
Người Cộng Sản đã tỏ ra khôn khéo khi vận dụng chiến tranh như một phương tiện tạo nên uy tín chính trị cho chính họ, một phương tiện để thủ tiêu và vô hiệu hóa kẻ tử thù là người Quốc Gia và kẻ thù giai đoạn là thực dân Pháp. Họ chính là người đã được lãnh nhận tất cả những vinh quang do chiến thắng đưa lại. Thành công trong chiến tranh nhưng người Cộng Sản đã thất bại trong hòa bình. Sự đói nghèo, chậm tiến, lạc hậu của miền Bắc sau 30 năm xây dựng xã hội chủ nghĩa và của miền Nam sau 23 năm giải phóng, là một bằng chứng tỏ rõ tính cách tay sai của công cụ đảng, đảng Cộng Sản VN, trong vai trò bao thầu lãnh đạo một dân tộc để cung ứng những dịch vụ máu xương cần thiết cho âm mưu bành trướng thế lực Cộng Sản quốc tế. Mặt nạ vì dân vì nước đã rơi xuống để toàn dân Việt nhìn rõ chân tướng sài lang của bọn Hồ, Duẩn, Chinh, Đồng...
3.1.1. Những nhận định sai lầm về người Cộng Sản
Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, mọi phong trào quần chúng và tổ chức chính trị đều bị đàn áp thẳng tay và trừng trị nặng nề bằng những sự giết chóc, tù đày, khổ sai. Trong sự khao khát độc lập, tự do, quần chúng đã quan niệm một cách giản dị là làm cách mạng chống Pháp là yêu nước. Và người Cộng Sản với những thành tích xách động quần chúng chống Pháp, tù đày cũng được coi là những người yêu nước. Trong thập niên 40, chủ nghĩa Cộng Sản là một cái gì xa lạ không riêng với quần chúng mà ngay cả trí thức có hoạt động đảng phái hay đã từng tham gia chính quyền. Bằng chứng là Trần Trọng Kim với tư cách Thủ Tướng chính phủ, đã hết lòng can thiệp với Bộ Tổng Tư Lệnh Nhật ở Hà Nội để xin tha cho những cán bộ Cộng Sản bị Nhật bắt giữ. Bà Cả Tề một nhân sĩ đã từng hết lòng che chở cho các đảng viên cao cấp Cộng Sản khi họ hoạt động ở ngoài và đi thăm nuôi họ khi họ bị tù đày. Hình như tất cả đã cố tình quên đi những sự thực lịch sử phũ phàng đáng suy gẫm về bản chất tráo trở của các lãnh tụ Cộng Sản. Cụ Phan Bội Châu đã bị bán cho mật vụ Pháp bắt với giá mười vạn đồng vào ngày 30/6/1925. Người chủ mưu không ai khác là Nguyễn Ái Quốc, tức Hồ Chí Minh sau này và Lâm Đức Thụ, một đảng viên Cộng Sản. Ngoài Cụ Phan Bội Châu, các thanh niên thuộc các đảng phái Quốc Gia không theo Cộng Sản đều bị họ mật báo cho Pháp bắt khi những người này lén lút trở về VN tổ chức cơ sở và hoạt động quần chúng. Đây là một sách lược thủ lợi đôi đường vừa hiểm độc mượn tay Pháp diệt được các đảng viên trung kiên, nòng cốt của những đảng phái Quốc Gia, đối thủ của đảng Cộng Sản khi thời cơ đến cùng ra tranh thủ quần chúng, vừa là một hình thức kinh tài để hoạt động mà lại giữ được mối giao hảo ngấm ngầm với thực dân Pháp. Sau này vào năm 1943, lại chính Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội đã can thiệp với Trương Phát Khuê, một tướng lãnh Quốc Dân Đảng Trung Hoa để tha Nguyễn Ái Quốc lúc đó đang bị bắt giam vì hoạt động cho Cộng Sản. Trương Phát Khuê đồng ý nhưng bắt Nguyễn Ái Quốc phải từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản và gia nhập Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội tức Việt Cách.
Đại để là người Quốc Gia đã quá khinh xuất không phân định được ai là kẻ đồng hội, ai là người đồng thuyền, ai là thành phần chủ lực trung kiên, ai là đồng minh giai đoạn, ai là tối hậu địch nhân như người Cộng Sản đã thẩm định và xếp loại kẻ thù.
3.1.2. Những cơ hội thuận lợi dành cho người Cộng Sản Việt Nam
23/8/1939 trùm Cộng Sản Stalin ký với Hitler một hiệp ước bất tương xâm giữa Nga và Đức. Với hiệp ước này, Cộng Sản Nga mở rộng biên cương về phía tây bằng cách sát nhập một nửa nước Ba Lan và một số đất đai quanh vùng. Cộng Sản Nga ngồi nhìn thế giới chiến tranh, đóng vai trò ngư ông chờ thời thủ lợi.
6/1941, Hitler đem quân xâm chiếm Nga. Chỉ trong khoảng năm tháng Đức đã chiếm được một phần lớn nước Nga, kiểm soát 40% dân số, khai thác hơn 60% tổng sản lượng than và thép của Nga. Nga tổ chức kháng chiến chống Đức. Trước đó ít lâu, Hồ Chí Minh được lệnh rời Mạc Tư Khoa về nước tìm cách hoạt động, phát triển đảng và bắt liên lạc với Đồng Minh. Vào năm 1943 khi được Trương Phát Khuê phóng thích, Hồ Chí Minh đã cam kết dùng người của mình đi thu thập tin tức về quân Nhật cho Quốc Dân Đảng Trung Hoa. Hồ Chí Minh cũng đã bắt liên lạc với một số sĩ quan tình báo Mỹ, nhận công tác đưa những phi công Mỹ bị Nhật bắn rơi trốn sang Trung Hoa. Để trả công, Mỹ đã cho lại một số máy truyền tin và vài chục khẩu súng. Với sự lệ thuộc vào Đệ Tam Quốc Tế về đường lối chính lược và chiến lược, người Cộng Sản VN đã tỏ ra am hiểu tình thế quốc tế hơn những người Quốc Gia. Họ đã mạnh dạn tung biểu ngữ khẩu hiệu "chống thực dân Pháp, diệt phát xít Nhật" và đã thành công vì nói lên được sự căm hờn của quần chúng về nạn đói năm Ất Dậu đã gây ra hơn hai triệu người chết. Lý do đói là vì thực dân Pháp đã tận thu thóc gạo để cung cấp cho quân Nhật ở Đông Dương và bán sang Đông Kinh theo hiệp ước 40-41 để Nhật thừa nhận Pháp ở Đông Dương, và cũng vì Nhật bắt phá lúa trồng đay để xử dụng trong chiến tranh. Với uy danh cách mạng trước quần chúng qua một số hành động bắt cóc, ám sát được thổi phồng qua sự tuyên truyền đồn đãi rỉ tai, ngày 18/8/1945 cán bộ Cộng Sản đã cướp cuộc biểu tình công chức tụ tập trước nhà hát thành phố Hà Nội để hoan hô chính phủ Trần Trọng Kim đã thu hồi chủ quyền toàn vẹn từ tay người Nhật (Nhật Hoàng xin đầu hàng vào ngày 15/8/1945) và biến thành cuộc tuần hành hoan hô quân giải phóng, hoan hô Việt Minh với cờ đỏ sao vàng dẫn đầu và đôi ba người mang súng đi kèm. Cộng Sản gấp rút thành lập ủy ban nhân dân rồi tổ chức quần chúng đến chiếm các công sở, tòa Đốc Lý và Bắc Bộ Phủ mà không gặp một trở ngại nào. Quần chúng với sự háo hức đổi đời được thúc đẩy gia nhập các đoàn thể như : Phụ Lão Cứu Quốc, Thanh Niên Cứu Quốc, Thiếu Nhi Cứu Quốc. Mỗi khu phố đều có ban điều hành và một toán tự vệ. Bằng đường lối nửa đe dọa, nửa hứa hẹn Cộng Sản yêu cầu chính phủ Trần Trọng Kim từ chức và vua Bảo Đại thoái vị.
Thế là trong sự ngơ ngác, hoang mang hay sợ sệt của mọi người, Cộng Sản đã chiếm được thời cơ, đoàn ngũ hóa quần chúng và tiến lên địa vị lãnh đạo. Sự xuất hiện của các đảng phái để công khai tranh thủ nhân dân và phản ứng đối với việc Cộng Sản cướp chính quyền có thể coi là chậm chạp, chỉ khởi sự khi Quốc Quân Trung Hoa tiến vào Hà Nội để giải giới Nhật theo đúng quy định của hiệp ước Postdam. Với sự có mặt của Quốc Quân Trung Hoa (thời đó dân chúng thường gọi là quân Tàu Phù vì đa số bị phù xưng sốt rét, sâu quảng ghẻ Tàu), các đảng phái đã áp lực Cộng Sản phải nhượng bộ cải tổ chính phủ và dành một số ghế, 70 trong tổng số 444 ghế trong quốc hội cho các đảng phái. Nhưng dưới con mắt nghi kị của quốc dân, hậu quả của hơn ngàn năm lệ thuộc Tàu và tám mươi năm Pháp thuộc, hào quang cách mạng yêu nước của các đảng phái đã bị hoen ố phần nào vì dựa thế quân ngoại quốc quá lộ liễu.
Sau bao khó khăn, quốc hội Việt Nam đầu tiên đã họp khoáng đại vào ngày 8/11/1946 tại Hà Nội để nhất trí chấp nhận bản dự thảo luật căn bản làm hiến pháp. Tất cả những thủ tục có tính cách nghi lễ trên được hoàn tất trong một ngày và quốc hội tự giải tán và trao quyền lại cho ủy ban thường trực quốc hội gồm 15 người do chính phủ đề cử và học giả Nguyễn Văn Tố không thuộc đảng phái nào làm trưởng ban.
Về phía hành pháp, các người Quốc Gia nắm ghế bộ trưởng Nguyễn Tường Tam (Đại Việt Dân Chính) nắm ngoại giao, Trương Đình Trị (Việt Cách) nắm Y Tế, Bồ Xuân Luật (Việt Cách) nắm canh nông và kể cả Nguyễn Hải Thần (Việt Cách) làm Phó Chủ Tịch nhà nước, đều chỉ nắm hư vị, ngồi chơi xơi nước. Mọi việc từ nhỏ đến lớn đều do người Cộng Sản giải quyết. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và Tổng Đảng Bộ Cộng Sản họp bàn hoạch định đường lối và điều động việc thi hành. Hồi đó, Tổng Đảng Bộ Cộng Sản gồm có: Hạ Bá Cang, Nguyễn Lương Bằng, Bùi Lân, Trường Chinh, Bùi Công Trừng và hai đảng viên Cộng Sản quốc tế, một người Hoa tên Pô, một người Nhật tên Tiêu Xung.
Sự có mặt hư vị của các đảng phái Quốc Gia trong chính quyền được người Cộng Sản tính toán và chấp nhận như một chiến thuật: Chia sẻ trách nhiệm trước quốc dân và tạo bộ mặt Quốc Gia cho chính họ để tránh sự có thể bị đàn áp bằng võ lực của Quốc Quân Trung Hoa. Kinh nghiệm về những cuộc đàn áp Cộng Sản thẳng tay của Quốc Dân Đảng Trung Hoa còn quá mới đối với những người Cộng Sản và nhất là Hồ Chí Minh mà cuộc tháo chạy tơi tả dài cả vạn lý của Mao Trạch Đông là một điển hình.
Đối với người Cộng Sản, trở ngại lớn nhất trên đường thực hiện chủ nghĩa không phải là thực dân mà là người Quốc Gia, vì thực dân là thời địch có tính giai đoạn sẽ qua đi. Chính người có tinh thần Quốc Gia mới là kẻ tử thù, tối hậu địch nhân của Cộng Sản khi họ nhận ra được bản chất của Cộng Sản là đế quốc cực quyền chủ trương độc tài và áp chế. Chỉ cần xét qua bản điều lệ gồm 21 điểm quy định tổ chức Comintern, Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản thì đủ rõ. Điểm 6 triệt để ngăn cấm các đảng Cộng Sản địa phương không được có khuynh hướng quốc gia. Điểm 14 buộc các đảng Cộng Sản địa phương phải triệt để và vô điều kiện ủng hộ Liên Bang Cộng Hòa Sô Viết. Điểm 16 buộc các đảng Cộng Sản địa phương phải tuyệt đối trung thành chấp hành toàn bộ mệnh lệnh của vô sản quốc tế trong đó đảng Cộng Sản Nga nắm quyền quyết định tối hậu.
Tổ chức Đệ Tam Quốc Tế do Lenin triệu tập tại Mạc Tư Khoa 1919 với khẩu hiệu "Vô sản các nước hãy đoàn kết lại" đã bị Stalin giải tán vào 1943 sau khi bị Đức đánh chiếm gần nửa lãnh thổ. Tuy nhiên, đây chỉ là một chiến thuật của Stalin với mục đích làm an lòng đế quốc Mỹ để Mỹ rộng tay viện trợ cho Nga thêm nhiều quân trang, vũ khí, thực phẩm... Sau khi cùng Đồng Minh thắng Đức, Nga đương nhiên bước lên địa vị siêu cường chia vùng ảnh hưởng với Mỹ thì Stalin lại tái thiết lập Đệ Tam Quốc Tế vào 1948 với danh xưng mới Comintern để kiểm soát chặt chẽ hơn các đảng Cộng Sản địa phương.
Chiến thuật của Stalin vào 1943 cũng đã được đảng Cộng Sản Đông Dương áp dụng vào ngày 11/11/1945 khi tuyên bố tự giải tán để trấn an dư luận quần chúng, để giải tỏa sự chống đối càng ngày càng gia tăng của các đảng phái Quốc Gia và nhất là để giành cảm tình của đế quốc Mỹ. Trong nhiều cuộc tiếp xúc với các đảng phái và tôn giáo, Hồ Chí Minh luôn luôn chứng tỏ, cam kết và dùng tới cả lời thề độc để làm cho những người được Hồ Chí Minh tiếp xúc tin rằng Hồ Chí Minh là người Quốc Gia hay ít ra cũng đã dứt khoát với quá khứ Cộng Sản của mình. Cố vấn chính phủ, Giám Mục Lê Hữu Từ là một trong những nhân vật đã được Hồ Chí Minh vận dụng tình cảm theo kiểu này để yêu cầu Thiên Chúa Giáo cộng tác vào ngày đầu Cộng Sản nắm chính quyền.
Vì những áp lực chống đối nặng nề, nhất là từ phía các đảng phái qua thế lực Quốc Dân Đảng (QDĐ) Trung Hoa, Tổng Đảng Bộ Cộng Sản đã phải tính đến việc đưa công dân Vĩnh Thụy, tức cựu hoàng Bảo Đại, đang giữ chức cố vấn tối cao cho chính phủ liên hiệp ra lập chính phủ. Nhưng vì sự tham nhũng của các tướng QDĐ Trung Hoa, Cộng Sản đã khôn khéo dùng vàng quyên góp được của dân chúng để xây dựng tổ quốc, hối lộ những người có quyền hành như tướng Tiêu Văn và Lư Hán. Được vàng của Cộng Sản, QDĐ Trung Hoa bỏ rơi các đảng phái Quốc Gia và để người Cộng Sản rộng tay hoạt động tiêu diệt các đảng phái Quốc Gia, những người nhẹ dạ ngây thơ tin vào sự giúp đỡ vô vị lợi của ngoại bang.
3.1.3. Chiến tranh như một phương tiện hoàn hảo trên đường thực hiện chủ nghĩa của người Cộng Sản
Hòa ước Trùng Khánh ký ngày 28/2/1946 giữa Pháp và Trung Hoa đã cho Pháp tiến quân lên phía trên vĩ tuyến 16 thay thế Quốc Quân Trung Hoa giải giới Nhật. Đổi lại Pháp nhượng cho Trung Hoa đường xe lửa Lào Kay -Vân Nam, trả lại các tô giới cũ và hứa ưu đãi Hoa kiều ở Đông Dương. Thâm ý của Trung Hoa là rút quân về dồn lực tiêu diệt Trung Cộng đang được Nga giúp tiếp thu đất Mãn Châu từ tay Nhật, và dùng tay Pháp trấn áp Cộng Sản VN rồi làm phên dậu che an toàn mặt biên giới phía nam cho Trung Hoa.
Sự rút quân Trung Hoa khỏi Việt Nam đã làm cho Việt Cách và Việt Quốc mất một thế dựa và sau đó bị Cộng Sản bao vây tiêu diệt nếu không tháo chạy kịp sang Tàu. Tuy nhiên đó lại là một may mắn vô cùng đối với người Cộng Sản. Từ nay họ được rộng tay hành động đối với thời địch bây giờ là thực dân Pháp và đối với tối hậu địch nhân là các đảng phái Quốc Gia VN. Trước một kẻ thù chung của cả dân tộc là thực dân Pháp đang cố tâm tái lập nền bảo hộ, người Cộng Sản đã lớn tiếng hô hào thống nhất ý chí, thống nhất lực lượng với khẩu hiệu "Tổ Quốc trên hết", "Đoàn kết để kháng chiến chống ngoại xâm". Bằng những kỹ thuật tuyên truyền khôn khéo Cộng Sản đã kích động được tình tự yêu nước của toàn dân, đặc biệt là ở tầng lớp thanh niên đầy nhiệt tình và lý tưởng. Bằng sự lý luận ngụy biện, Cộng Sản đã đưa ra một tiền đề của tam đoạn luận đầy sai lạc "Đánh Pháp là yêu nước". Họ không định rõ lý do đánh Pháp trên lập trường nào nhưng với lòng yêu nước bồng bột mọi người đã nhắm mắt chấp nhận không thắc mắc. Chấp nhận tiền đề sai lạc này là đã ủy nhiệm toàn quyền hành động cho Cộng Sản trong vai trò lãnh đạo cuộc chiến. Các đảng phái Quốc Gia bị đẩy vào một tình thế khó khăn, tiến thoái lưỡng nan. Nếu chống Cộng thì bị tiếng là phản động chia rẽ, làm Việt gian tiếp tay với thực dân Pháp phản đồng bào, bán nước Ỷ đó là một điều sỉ nhục lớn nhất đối với những người đã từng hiến dâng cuộc đời cho lý tưởng Quốc Gia, dân tộc, từng chấp nhận chết chóc, tù đày, đánh đập, nghèo khổ... Nếu chống Pháp để thực hiện lý tưởng hằng đeo đuổi, phù hợp với nguyện vọng của toàn dân, tránh được tiếng Việt gian bán nước đầy ô nhục thì tất yếu phải gia nhập hàng ngũ kháng chiến, chịu sự lãnh đạo của Cộng Sản. Và cộng tác với Cộng Sản là một việc cực kỳ rất nguy hiểm mà những người có kinh nghiệm đấu tranh đều đã ít nhiều thể nghiệm bằng xương máu của chính mình và các đồng chí. Cộng tác, liên hiệp với Cộng Sản chỉ có hai điều có thể xảy ra: Một là bị nhuộm đỏ, có giá trị như một sự đầu hàng, để trở thành Cộng Sản phục vụ tổ chức Cộng Sản quốc tế, coi tổ quốc, dân tộc chỉ là phương tiện, như Bồ Xuân Luật, Đinh Chương Dương của Việt Cách... Hai là bị thủ tiêu bí mật hay là bị chụp mũ gián điệp Việt gian, hủ hóa để làm nhục rồi bị giết đi để trừ hậu họa, có giá trị như một sự tự sát vô thức. Với các lãnh tụ đảng phái Quốc Gia đã nổi danh, đa số chọn giải pháp tiêu cực. Họ không chấp nhận Pháp, cũng không theo Cộng Sản. Họ chạy ra ngoại quốc hoặc trốn tránh nằm im đợi thời. Dưới cái nhìn tích cực của người đấu tranh cách mạng thì đó là thái độ bất lợi, gây nhiều ngộ nhận, dễ bị lên án... như mọi người đã thấy qua những bài báo, sách vở xuất hiện cả hai phía Cộng Sản và tự do. Nhưng nếu nhìn ra cái thế kẹt của người Quốc Gia, nằm trên đe dưới búa, đứng giữa hai lằn đạn thù của hai thế lực quốc tế: Cộng Sản, đế quốc thực dân mới và Pháp, đế quốc thực dân cũ, tất sẽ thông cảm nỗi đau nhục xót xa này của những người muốn làm một cái gì nhưng bị mắc cứng trong sự trói buộc của Thời và Thế, chỉ có thể an ủi như Ngô Thời Nhiệm, kẻ lỡ thời, thất thế trả lời Đặng Trần Thường, kẻ đắc thời đắc thế, và đầy tự mãn khi ra câu đối:
Ai Công Hầu, ai Khanh Tướng, trong trần ai, ai dễ biết ai!
(Đặng Trần Thuờng)
Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thì phải thế!
(Ngô Thời Nhiệm)
Người Cộng Sản cố mềm mỏng trong việc điều đình với Pháp để mua thời gian củng cố lực lượng và phát triển tổ chức cơ sở. Họ đã ký hiệp định sơ bộ 6/3/1946 với Pháp, thừa nhận sự đóng quân của Pháp trên lãnh thổ VN. Với hiệp ước này, Cộng Sản bị người Quốc Gia chỉ trích và quần chúng mất tin tưởng. Dư luận đã xôn xao, nghiêm khắc kết tội Việt Minh như kẻ rước Pháp vào tái lập chế độ thực dân, như xưa Hồ Chí Minh đã từng cộng tác với mật vụ Pháp để điềm chỉ bắt người Quốc Gia:
"Đánh tan cái lũ bất nhân,
Đánh tan cái lũ rước quân Pháp về.
Cùng nhau hẹn một lời thề,
Đã làm cách mạng chẳng hề sợ chi.
Nhớ lời mạnh bước chân đi
Diệt quân Cộng Sản bỏ khi cực lòng"
Và ngay cả những người thiên tả trong nhóm thợ thuyền VN tại Pháp cũng tỏ lộ sự phẫn nộ, công khai đả kích Hồ Chí Minh. Tờ La Paria xuất bản tại Ba Lê vào những ngày đầu tháng 7/1946, đã đăng một bức thư ngỏ gởi Hồ Chí Minh như sau:
"Chúng tôi một số đồng chí ít ỏi do chính đồng chí đào tạo 1925. Những tư tưởng của đồng chí đã thấm sâu vào chúng tôi. Chúng tôi xem đồng chí như biểu tượng cho tất cả những tầng lớp thợ thuyền VN trẻ.
Chúng tôi không ngờ lại phải mất hết hy vọng sau thỏa ước 8/3. Đồng chí đã ký một thỏa ước chấp nhận tự trị mà không phải là độc lập. Sức mạnh của lòng tin tưởng của chúng tôi đặt vào nơi đồng chí là lãnh tụ phong trào cách mạng phản đế cũng ngang ngửa với lòng căm phẫn của chúng tôi. Chúng tôi lấy làm xấu hổ là đã chọn lầm lãnh tụ. Nhưng nhân dân VN không bao giờ tuyệt vọng. Họ sẽ tiếp tục con đường đồng chí đã vạch nhưng đã không noi theo đến cùng".
Hội nghị Đà Lạt họp vào tháng 4 và tháng 5/1946 và Fontainebleau vào ba tháng 7, 8 và 9/1946 để cố gắng sửa lại thiếu sót đó, để đòi hỏi hoàn toàn độc lập cho VN đã bị thất bại. Hồ Chí Minh đích thân đi Ba Lê vận động qua đường dây Cộng Sản Pháp nhưng cũng không xong. Sợ mất quyền lực chính trị với quần chúng, họ Hồ đành phải ký một Tạm Ước với Tổng Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại, Marius Moutet, đảng viên xã hội đã quen biết họ Hồ từ hai mươi năm, vào ngày 14/9/1946. Tạm Ước này chỉ là một sự tái xác nhận nhiều đặc quyền của thực dân Pháp trên lãnh thổ VN.
Trào lưu chính trị thế giới đã biến đổi với sự hình thành của những thế lực siêu cường và những vùng ảnh hưởng. Người Pháp, đại diện bằng De Gaulle và các chính khách thực dân vẫn chủ quan nuôi tham vọng tái lập toàn vẹn thuộc địa, được gọi là Pháp Quốc Hải Ngoại. Chính sách duy trì toàn vẹn đế quốc thực dân dưới danh hiệu mới Liên Hiệp Pháp được chấp thuận tại hội nghị Brazzaville, thủ đô Congo thuộc Pháp vào tháng 4/1945 mà sự áp dụng đầu tiên là cuộc tái chiếm Nam Bộ VN.
Với chính lược đã quy định, việc Pháp tái chiếm VN chỉ là vấn đề thời gian. Trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, ngoài thì bị kẻ thời địch là thực dân Pháp lấn át đòi những điều kiện không thể chấp nhận được, trong thì bị những đảng phái Quốc Gia lật mặt nạ chỉ trích và dân chúng bắt đầu nghi kị là thỏa hiệp bắt tay với Pháp, Tổng Đảng Bộ Cộng Sản sau những suy tính hơn thiệt đã chấp nhận giải pháp chiến tranh như con bài gỡ bí. Hồ Chí Minh hạ lệnh "Tiêu thổ kháng chiến". Súng nổ vào tối 19/12/1946.
Với chiến tranh người Cộng Sản lấy lại được uy thế chính trị, nắm được hào quang chính nghĩa Quốc Gia. Chiến tranh như một phương tiện tuyệt hảo được người Cộng Sản dùng để thực hiện những mục tiêu ngắn hạn thuộc chiến thuật cũng như những mục tiêu dài hạn nằm trong chiến lược và cả những mục tiêu tối hậu nằm trong chính lược toàn cầu. Người Cộng Sản luôn luôn tâm niệm dùng cách mạng bạo lực để thực hiện một chế độ vô sản chuyên chính. Chém giết là phương tiện tốt nhất để trấn áp chống đối và đạt thắng lợi trong một xã hội mà bản chất là đấu tranh và sinh tồn giữa những con người làm nên giai cấp xung đột nhau trong mối tương quan Quyền, Lực. Với người Cộng Sản chủ trương chiến tranh toàn diện để đạt được mục đích tối hậu của chiến tranh là hoàn toàn tiêu diệt được quân địch với tất cả năng lực công thủ và không để kẻ thù khôi phục tiềm năng vì hòa bình chỉ được coi là một giai đoạn chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới. Trong cuộc chiến Pháp Việt 1945-1954, chiến tranh đã là một duyên cớ chính đáng được Cộng Sản triệt để vận dụng để biện minh cho những hành động áp chế dân chúng của họ, quần chúng đã cúi đầu chấp nhận chiến tranh như chấp nhận một số phận hẩm hiu. Với chiến lược tiêu thổ kháng chiến, người Cộng Sản đã cho lệnh đốt phá thẳng tay nhiều thành phố, cầu cống, nhà máy trước khi rút lui. Nằm trong chiến lược trên, Cộng Sản cũng đã lùa dân triệt để tản cư về thôn quê, ra ngoại thành. Dụng ý xấu xa của Cộng Sản khi đốt phá triệt hạ các thành phố và lùa dân đi không chỉ đơn thuần mục tiêu quân sự là di tản chiến thuật tạo khó khăn cho quân Pháp, không cho chúng xử dụng các cơ sở, tiện nghi vật chất để làm chiến tranh, cũng không chỉ đơn thuần nhằm mục tiêu chính trị giai doạn: tranh thủ dân với Pháp để họ không có dân để cai trị và xử dụng trong các dịch vụ... Đành rằng các mục tiêu kể trên là những mục tiêu thực tế và cấp thời vì yếu tố cơ bản để làm chiến tranh là nhân dân. Không có dân không có chiến tranh, không có dân không có người cầm súng. Không có dân không có lương thực nuôi quân. Không có dân không có tình báo để thấu hiểu địch tình. Không có dân không có chỗ nương náu an toàn. Dân là nước và quân là cá. Nhưng hành động đốt phá thành phố của Cộng Sản nó còn mang thêm một một ý nghĩa cao hơn của chính lược Cộng Sản: vô sản hóa quần chúng bằng chiến tranh, chuẩn bị nền móng, khai quang đất địa để xây dựng chế độ vô sản chuyên chính. Người dân thành phố sau khi bị cắt đứt với những liên hệ tài sản của họ ở thành thị, họ chỉ còn hai bàn tay trắng, và phải lệ thuộc vào chính quyền về đồng lương nếu là công chức, về thuế khóa nếu là buôn bán. Họ trong tình trạng vô sản tất sẽ dễ dàng chấp nhận những biện pháp cải cách của chính quyền hơn cả những nông dân thiếu ăn, thiếu mặc nhưng lại thừa đầu óc tư hữu.
Sau khi Mao Trạch Đông thống nhất Hoa Lục, tuyên bố thành lập chế độ Cộng Hòa Nhân Dân vào 1/10/1949, người Cộng Sản VN cũng để lộ nguyên hình, không dùng tới mặt nạ ngụy trang Quốc Gia như trước nữa. Với họ, tư tưởng Quốc Gia Dân Tộc bị kết án là hẹp hòi, lạc hậu và... phản động. Lòng yêu nước chân chính phải là phục vụ lý tưởng Cộng Sản và giai cấp vô sản quốc tế. Đảng Cộng Sản được tái lập với danh xưng mới: Đảng Lao Động VN vào ngày 3/3/1951. Chủ trương của đảng được sửa đổi lại, không chỉ chú trọng đánh đế quốc thực dân Pháp Ỷ Phản Đế Ỷ như những ngày đầu kháng chiến khi đảng còn yếu, phải giải tán và người Cộng Sản phải đội danh Quốc Gia. Họ đã kết hợp đồng thời Phản Đế với Phản Phong, tức đánh phong kiến, cường hào ác bá, tư sản mại bản... Sự xuất hiện của đảng Lao Động là nguyên nhân trực tiếp của những vụ học tập chính trị, đường lối trong bộ máy quân đội, bộ máy chính quyền và các tổ chức quần chúng. Đảng đã thiết kế và điều động thi hành những vụ thanh trừng, thủ tiêu, đấu tố khủng khiếp sau đó tại những vùng Cộng Sản kiểm soát, trong mục đích bần cùng hóa nhân dân và thủ tiêu những phần tử có tư tưởng Quốc Gia đang nắm những chức vụ chỉ huy trong các tổ chức chính quyền, quân đội và quần chúng để diệt trừ hậu họa.
Được sự giúp đỡ tận tình của Cộng Sản Trung Hoa như một hậu phương lớn, vững chắc và an toàn, Cộng Sản VN đã phản công Pháp và dần dần đẩy Pháp vào thế bị bao vây. Sự chênh lệch đã quá rõ rệt khi đem cân lực lượng đôi bên, giữa thế lực quốc tế đang lên là Cộng Sản và thế lực đã suy tàn của đế quốc thực dân Pháp sau Đệ Nhị Thế Chiến.
20/7/1954 Pháp Việt Minh ký hiệp định Genève chia đôi VN. Trên vĩ tuyến 17 Cộng Sản tiếp tục công việc đang làm dang dở qua phương tiện chiến tranh: Cải tạo nhân dân, cải tạo xã hội mà điển hình là cuộc cải cách ruộng đất thực hiện từ 1953-1956 với trên nửa triệu người chết oan uổng vì những ý niệm mơ hồ trong một nội dung co dãn nhu Địa Chủ, Phú Nông, Tư Sản... vì những tội danh chụp mũ như: hút máu mủ nhân dân, chống phá cách mạng, Việt gian bán nước... để bắt ép cả nước vững chắc tiến nhanh, tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa, bảo đảm hoàn tất tốt đẹp nghĩa vụ quốc tế vô sản được Mạc Tư Khoa giao phó: tiền đồn của xã hội chủ nghĩa.
Trần Chính Trung - Ban Chủ Trương Nguyệt San Chiến Sĩ Cộng Hòa